NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI
Ý KIẾN CỦA KTV TRÊN BÁO CÁO KIỂM TOÁN Ở VIỆT NAM
Báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên về báo cáo tài chính là khâu công việc cuối cùng của quá trình kiểm toán báo cáo tài chính.
Ý kiến của KTV trên báo cáo Kiểm toán ở Việt Nam

BÀN VỀ Ý KIẾN CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRÊN

 BÁO CÁO KIỂM TOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN HÀNH

                                          

                                          Nguyễn Thị Nguyệt Thu

                                             Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội

 

Báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên về báo cáo tài chính là khâu công việc cuối cùng của quá trình kiểm toán báo cáo tài chính. Về thực chất, báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính là bản thông báo kết quả cuộc kiểm toán báo cáo tài chính cho người sử dụng báo cáo tài chính; trong đó, kiểm toán viên phải nêu được những đánh giá của mình về sự phù hợp và tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính cũng như sự tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành khi lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ý kiến của kiểm toán viên phản ánh trên báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính ở Việt Nam hiện còn khá nhiều vấn đề cần trao đổi. Bài viết này, xin đề cập đến vấn đề nêu trên.

1. Các loại ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán 

Theo Chuẩn mực số 700 "Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính" ban hành theo  Quyết định số 120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, báo cáo kiểm toán là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị đã được kiểm toán. Trong ý kiến đánh giá của kiểm toán viên phải xác định mức độ phù hợp của báo cáo tài chính với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, cũng như xác định sự tuân thủ theo các quy định pháp lý có liên quan khi lập báo cáo tài chính. Đồng thời, báo cáo kiểm toán phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên về các báo cáo tài chính trên phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan. "Phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu" được hiểu là ý kiến của kiểm toán viên đưa ra trong báo cáo kiểm toán là một sự đảm bảo chắc chắn rằng báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu; nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng không có bất kỳ một sai sót nào trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Kiểm toán viên chỉ quan tâm đến các yếu tố trọng yếu của báo cáo tài chính.

Ngoài các nội dung chung như: Tên và địa chỉ công ty kiểm toán; số hiệu báo cáo kiểm toán; tiêu đề báo cáo kiểm toán; người nhận báo cáo kiểm toán; mở đầu của báo cáo kiểm toán, phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán, ..., nội dung chủ yếu của báo cáo kiểm toán là ý kiến đánh giá của kiểm toán viên về báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Đồng thời, báo cáo kiểm toán phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên. Căn cứ kết quả kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra một trong các loại ý kiến về báo cáo tài chính như: Ý kiến chấp nhận toàn phần; ý kiến chấp nhận từng phần; ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến) và ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược).

Ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận). Ý kiến chấp nhận toàn phần cũng có hàm ý rằng tất cả các thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá một cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Ý kiến chấp nhận toàn phần được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo tài chính được kiểm toán có những sai sót nhưng đã được kiểm toán viên phát hiện đơn vị đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên và đã được kiểm toán viên chấp nhận. Ngoài ra, ý kiến chấp nhận toàn phần còn được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo kiểm toán có một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến báo cáo tài chính, nhưng không có ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán. Cũng cần lưu ý rằng: ý kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là báo cáo tài chính được kiểm toán là hoàn toàn đúng, mà có thể có sai sót nhưng sai sót đó là không trọng yếu.

Ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuỳ thuộc (hoặc ngoại trừ) mà kiểm toán viên đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán. Điều này cũng có nghĩa là nếu các yếu tố do kiểm toán viên nêu ra trong báo cáo kiểm toán có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính thì báo cáo tài chính đó đã không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu. Ý kiến chấp nhận từng phần cũng được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, và những phần không chấp nhận do không đồng ý với Giám đốc hay do công việc kiểm toán bị giới hạn là quan trọng nhưng không liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục tới mức có thể dẫn đến “ý kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận”. Ý kiến chấp nhận từng phần còn được thể hiện bởi thuật ngữ “ngoại trừ” ảnh hưởng của các vấn đề không được chấp nhận, bằng mẫu câu: “ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) của những vấn đề nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu...” .

Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến) được đưa ra trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về báo cáo tài chính, bằng mẫu câu: “Theo ý kiến của chúng tôi, vì các lý do nêu trên, chúng tôi không thể đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính...”.

Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất với Giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của báo cáo tài chính, bằng mẫu câu: "Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của những vấn đề nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh không trung thực và không hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu...".

 

2. Thực trạng ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán ở Việt Nam hiện nay về kết quả kiểm toán báo cáo tài chính 

Xung quanh nội dung “ý kiến của kiểm toán viên” phản ánh trên các báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính ở Việt Nam hiện nay còn có khá nhiều vấn đề cần trao đổi - nhất là nội dung và "vỏ bọc" của chúng.

Về nội dung, phần trình bày ý kiến của kiểm toán viên trên báo cáo kiểm toán là phần đúc kết nhất khẳng định lại toàn bộ những kết luận về đối tượng kiểm toán. Do bản chất vốn có của một cuộc kiểm toán và tính chất của các gian lận, không thể đảm bảo chắc chắn rằng gian lận luôn được phát hiện nên trong thực tế, một chuyên gia phát hiện gian lận nhiều kinh nghiệm cũng không thể đảm bảo chắc chắn phát hiện được toàn bộ các gian lận khi chúng được che dấu một cách cố ý. Vì vậy, xét trên một phương diện nào đó, độ tin cậy với những kết luận của kiểm toán viên chỉ mang tính tương đối.

 Qua khảo sát và thống kê ý kiến của kiểm toán viên trên báo cáo kiểm toán về kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết đã được công bố cho thấy: hơn 90% báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính đã khảo sát kết luận của kiểm toán viên cho rằng” Theo chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu…”; khoảng 0,5% ý kiến cho rằng không thể đưa ra kết luận nhưng những báo cáo này chỉ xuất hiện sau khi đơn vị được kiểm toán đã lên sàn được một thời gian; còn lại là các báo cáo chứa đựng ý kiến ngoại trừ của kiểm toán viên. Kết quả này phản ánh một thực trạng: gần 100% báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết ở Việt Nam phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.

Tuy nhiên, hơn ai hết, các công ty được kiểm toán và bản thân các kiểm toán viên hiểu rất rõ báo cáo tài chính của các đơn vị được kiểm toán nói riêng và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nói chung ở Việt Nam trung thực và hợp lý (trên khía cạnh trọng yếu) ở mức nào! Bởi vì, bên cạnh những gian lận bị che dấu mà kiểm toán viên không phát hiện ra thì còn tồn tại khá nhiều gian lận đã được phát hiện nhưng cũng bị che dấu bằng cách này hay cách khác.

 Về cách thức sử dụng ngôn ngữ của kiểm toán viên trong phần trình bày ý kiến trên các báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính, theo kết quả điều tra các nhân viên của một số đơn vị kiểm toán, được biết: thông thường, khi tiến hành một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, thời gian đầu công việc được các kiểm toán viên thực hiện khá chặt chẽ và triệt để, song càng về sau - nhất là gần sát thời điểm kết thúc kiểm toán -  việc kiểm toán càng được “lỏng tay” hơn! Cũng không ai dám khẳng định là không có việc “làm đẹp”, "đánh bóng" các báo cáo tài chính để công bố rộng rãi, thu hút các nhà đầu tư và tất cả những ai đã và sắp quan tâm tới đơn vị là điều dễ hiểu! 

Qua nghiên cứu các báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết đã được công bố, dễ bắt gặp hay dễ tìm thấy các báo cáo kiểm toán có chứa ý kiến chấp nhận toàn phần. Ngôn ngữ mà kiểm toán viên sử dụng trong việc bày tỏ ý kiến trên báo cáo kiểm toán thường gần giống nhau; chẳng hạn: "Theo ý kiến chúng tôi, xét trên mọi khía cạnh trọng yếu thì Báo cáo tài chính đã phản ảnh trung thực và hợp lý về tình hình tài chính của Công ty và kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tình hình lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính " hoặc: "Theo ý kiến chúng tôi, Báo cáo tài chính đề cập đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty, kết quả hoạt động kinh doanh và lưu chuyển tiền tệ cho năm tài chính kết thúc cùng ngày, đồng thời phù hợp với các Chuẩn mực, Chế độ Kế toán Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan", hay: "Theo ý kiến của chúng tôi, Báo cáo tài chính kèm theo đã phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, tình hình tài chính của Công ty... cũng như kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho năm tài chính kết thúc cùng ngày, phù hợp với các Chuẩn mực Kế toán Việt Nam, Hệ thống Kế toán Việt Nam và các quy định hiện hành khác về kế toán tại Việt Nam, ... Những ý kiến tương tự như: "Theo ý kiến của chúng tôi, Báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty ..., cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan" hay : "Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính kèm theo đã phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, tình hình tài chính của Công ty ... cũng như kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho năm tài chính kết thúc cùng ngày, phù hợp với các Chuẩn mực Kế toán Việt Nam, Hệ thống Kế toán Việt Nam và các quy định hiện hành khác về kế toán tại Việt Nam"... chiếm hầu hết trong các báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên.

Bên cạnh các ý kiến chấp nhận toàn phần, ý kiến chấp nhận từng phần cũng được kiểm toán viên vận dụng khá triệt để và ngày càng nhiều hơn - nhất là trong các báo cáo kiểm toán năm tài chính 2007. Ý kiến này được các kiểm toán viên sử dụng để loại trừ ảnh hưởng của một số vấn đề có tính trọng yếu đến báo cáo tài chính của đơn vị mà thực chất  là một cách chối bỏ trách nhiệm của kiểm toán viên đối với kết quả kiểm toán. Bằng cách này, kiểm toán viên dễ dàng đùn đẩy trách nhiệm (nếu có) do những ảnh hưởng này có thể phát sinh trong tương lai mà đơn vị được kiểm toán và kiểm toán viên không thể kiểm soát được. Ngôn ngữ mà kiểm toán viên sử dụng khi nêu ý kiến chấp nhận từng phần dù có khác nhau tí chút nhưng người sử dụng thông tin cũng dễ dàng nhận ra mục đích của những ý kiến này. Chẳng hạn: "Trong kỳ, Công ty chưa tiến hành trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi theo thông tư số 13/2006/TT-BTC ngày 27/02/2006 của Bộ Tài chính số tiền 3.882.753.230 VND. Trong năm tài chính 2007, doanh thu và giá vốn của các bên tham gia liên doanh dự án  ... đang được Công ty phản ánh vào kết quả kinh doanh. Tuy nhiên việc phản ánh này không ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế của Công ty. Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ vấn đề nêu trên và ảnh hưởng của chúng, Báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty  ... tại ngày 31/12/ 2007, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12 /2007, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan. Chúng tôi, cũng xin lưu ý người đọc báo cáo tài chính: Trong năm tài chính 2007, công ty thực hiện tạm quyết toán và phân chia lợi nhuận đợt I toàn dự án ... Theo đó giá vốn quỹ nhà ở của Thành Phố theo Quyết định 1253/QĐ-UB ngày 21/02/2002 đang được Công ty ghi nhận vào phần quyết toán nhà phải trả thành phố.

Các báo cáo tài chính có chứa đựng những sai sót trọng yếu đã được điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên cũng được xếp vào loại báo cáo tài chính được kiểm toán báo cáo chấp nhận toàn phần, với nội dung ‘’theo ý kiến của chúng tôi,báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của Công ty...’’. Tuy nhiên trước khi đưa ra câu kết luận đó, không ít các sai phạm đã được liệt kê thông qua phần “cơ sở ý kiến” hoặc phần “hạn chế kế toán”;” những vấn đề ảnh hưởng đến ý kiến của kiểm toán viên”. Để đảm bảo tính hợp lý của nội dung báo cáo và đảm bảo tính an toàn cho nhận xét kiểm toán, các câu như "ngoại trừ ảnh hưởng của những vấn đề nêu trên và ảnh hưởng của chúng nếu có...” được sử dụng khá phổ biến. Rõ ràng, những câu đệm trên xuất hiện đã làm giảm tính rủi ro cho phần trách nhiệm của các kết luận kiểm toán đưa ra. Bởi ảnh hưởng ‘nếu có” của các vấn đề nêu trên thường liên quan đến các sự kiện có thể sảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và của kiểm toán viên. Việc đưa ra ý kiến này giúp kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người đọc báo cáo tài chính phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra.

Một cách hài hước, kiểm toán viên đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu hết sức thú vị đối với cách hành văn trong báo cáo kiểm toán tài chính. Đó là, ý kiến của kiểm toán viên nêu ra bao gồm kiểm toán viên phải quán triệt 4 nguyên tắc: mang tính xây dựng, thực tế, khéo léo, cấu trúc ngắn gọn và rõ ràng.

Nguyên tắc "Mang tính xây dựng" được lý giải là "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà viết cho vừa lòng nhau". Ý kiến của kiểm toán viên đưa ra phải vừa lòng các nhà quản lý, các khách thể kiểm toán và do vậy, các báo cáo kiểm toán sẽ được trình bày hợp lý, hợp ý đơn vị mà kiểm toán viên lại chẳng mất mát gì! Nguyên tắc "Thực tế" được hiểu là "Trăm nghe không bằng một thấy", nguyên tắc "Khéo léo" nghĩa là "Biết nhiều không bằng biết điều" và nguyên tắc "Cấu trúc ngắn gọn và rõ ràng" được hiểu là "Đa thư, loạn tâm" hay "Nói dài, nói dai, nói dại"! Hơn ai hết, sau cuộc kiểm toán, kiểm toán viên là người nắm rõ nhất về tình hình hoạt động, tình hình tài chính của khách thể kiểm toán; tuy nhiên, không có nghĩa là biết từng nào giải trình từng đó, mà các kiểm toán viên rất” biết điều” cho ra tác phẩm của mình.

Bên cạnh những vấn đề xuất phát từ kiểm toán viên và từ công ty kiểm toán, chúng ta cũng không thể không đề cập đến vấn đề xuất phát từ khách thể kiểm toán dẫn đến làm giảm độ tin cậy của báo cáo kiểm toán. Công ty kiểm toán và kiểm toán viên chỉ dùng nghiệp vụ của mình kiểm tra bản báo cáo tài chính, phát hiện, chỉ rõ những sai sót về hạch toán, đồng thời đề nghị doanh nghiệp điều chỉnh số liệu theo hướng chính xác, trung thực và minh bạch hơn. Nhưng doanh nghiệp có làm theo đề nghị đó hay không lại là chuyện khác.

Các bản báo cáo tài chính “đã kiểm toán” hiện được coi là một nguồn thông tin quan trọng về tình hình hoạt động của doanh nghiệp mà nhà đầu tư có thể tiếp cận. Nhiều nhà đầu tư tin rằng, hầu hết các báo cáo tài chính đều phản ánh trung thực, chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp do đã vượt qua “rào chắn ” kiểm soát số liệu tài chính là các công ty kiểm toán. Bởi vậy, chúng nghiễm nhiên trở thành một cơ sở quan trọng để họ đánh giá tình hình kinh doanh của doanh nghiệp và ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng của các bản báo cáo tài chính hiện nay chưa thực sự đáng tin tưởng, mặc dù chúng đều được gắn mác “đã kiểm toán”. Sự kiện Công ty Cổ Phần Bông Bạch Tuyết là một ví dụ minh chứng cho trường hợp báo cáo tài chính đã được gắn mác "đã kiểm toán" để chúng ta phải suy nghĩ. Rất nhiều mục hồi tố điều chỉnh trong báo cáo tài chính năm 2007, kết quả kinh doanh của Công ty đã bị thay đổi hoàn toàn so với báo cáo tài chính có kiểm toán 2006.

Như vậy, ý kiến của Kiểm toán viên và của Công ty kiểm toán về báo cáo tài chính có ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều phía. Trường hợp ý kiến đưa ra thiếu chính xác, nhà đầu tư vẫn là người hứng chịu nhiều thiệt thòi nhất. Bởi vì, không phải nhà đầu tư nào cũng có đủ năng lực để xem và hiểu rõ được thuyết minh báo cáo tài chính và đánh giá được các điểm quan trọng của các điểm ngoại trừ trong báo cáo của Kiểm toán viên, thậm chí, hiểu rõ báo cáo của kiểm toán viên thì với hàng loạt yếu tố ngoại trừ trong báo cáo tài chính như vậy, nhà đầu tư cũng không hoàn toàn đủ thông tin để đánh giá được thực chất hoạt động doanh nghiệp để ra quyết định đầu tư đúng đắn. Việc hồi tố báo cáo tài chính làm thay đổi hoàn toàn kết quả kinh doanh của công ty như thế, ngoài bài học kinh nghiệm đối với nhà đầu tư nên xem xét kỹ báo cáo tài chính trước khi  đưa ra quyết định đầu tư, thì điều này cũng gây ra một tâm lý tiêu cực đối với nhà đầu tư tham gia thị trường, làm họ phải thận trọng, nghi ngờ hơn đối với các kết quả kinh doanh của các công ty niêm yết có báo cáo tài chính đã kiểm toán. Liệu trong số các báo cáo tài chính có kiểm toán đã công bố của các Công ty niêm yết trên 2 sàn giao dịch hiện nay, có công ty nào lại lặp lại "vết xe đổ" này không?

Mặt khác, ý kiến của kiểm toán viên và của công ty kiểm toán còn tác động không nhỏ đến cơ quan quản lý, với bản thân công ty kiểm toán, với cổ đông, với các nhà cung cấp tín dụng vv... làm mất lòng tin của thị trường vào tính cẩn trọng, xác thực của báo cáo kiểm toán. Chẳng hạn, đối với cơ quan quản lý thị trường, với ý kiến bao gồm các điểm ngoại trừ trọng yếu như vậy trong báo cáo kiểm toán, việc đánh giá số liệu tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp sẽ hoàn toàn không chính xác. Việc cung cấp các thông tin minh bạch của các tổ chức niêm yết một cách công khai, kịp thời đồng thời cũng là trách nhiệm của cơ quan quản lý.

 

3. Giải pháp nâng cao chất lượng ý kiến kiểm toán viên trong báo cáo kiểm toán

Để nâng cao chất lượng báo cáo kiểm toán, phục hồi lòng tin của các nhà đầu tư và của cả xã hội, bảo đảm tính công khai và minh bạch, tính chính xác của báo cáo tài chính đã được kiểm toán, cần áp dụng một số giải pháp sau:  

Thứ nhất, nâng cao đạo đức nghề nghiệp và đạo đức con người của kiểm toán viên:

Trong những năm gần đây, việc nhiều Công ty bị phá sản do lỗi của Công ty kiểm toán không còn xa lạ. Sở dĩ có tình trạng này là do một nguyên nhân hết sức quan trọng, không giải quyết được các xung đột lợi ích trong quá trình hành nghề, một vấn đề thuộc lĩnh vực đạo đức của người hành nghề kiểm toán. Các kiểm toán viên là người được đặt niềm tin lớn nhất của những nhà đầu tư, nhà quản lý, các tổ chức, cá nhân… quan tâm đến báo cáo kiểm toán. Thực hiện vai trò quan trọng của mình, kiểm toán viên cần đưa ra kết luận chính xác, rõ ràng, trung thực về những gì mà họ đã thực hiện. Kiểm toán viên cần trau dồi kinh nghiệm, trình độ để tự tin vào khả năng của bản thân hơn, dám chịu trách nhiệm về những kết luận mà mình đưa ra. Một khi đã gắn trách nhiệm với từng cá nhân thì tinh thần trách nhiệm sẽ được nâng cao rõ rệt, kết quả là những kết luận trên báo cáo kiểm toán sẽ có giá trị hơn, tin cậy hơn. Để có thể nêu lên ý kiến khách quan của mình, kiểm toán viên cần trau dồi tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp và hơn nữa, tu dưỡng đạo đức con người vì hơn ai hết, con người có nhân cách, có đạo đức sẽ không vì bất kỳ một áp lực nào để bóp méo sự thật.

Thứ hai, cần tách biệt các mối quan hệ trong quá trình kiểm toán: 

Một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính thực hiện với một khách thể kiểm toán được thực hiện bởi một nhóm Kiểm toán viên với quy mô khoảng 4 người, dưới sự chỉ đạo của Trưởng nhóm. Để tin cậy hơn với các kết luận báo cáo kiểm toán tài chính của Kiểm toán viên cần phải tách biệt ngay từ khi bắt đầu cuộc kiểm toán các chủ thể kiểm toán với khách thể kiểm toán nhằm mục đích tránh, giảm các mối quan hệ bất thường ảnh hưởng trực tiếp tới các kết luận trên báo cáo kiểm toán. Sự tách biệt ở đây được hiểu là sự tách biệt cả về giao tiếp, địa lý vv...

Thứ ba, kiểm toán viên cần nêu rõ trách nhiệm của mình đối với ý kiến ngoại trừ:

Không thể phủ nhận độ tin cậy của kết luận kiểm toán đã nêu trong phần kết luận của báo cáo kiểm toán, nhưng Kiểm toán viên cần khẳng định rõ trách nhiệm kết luận của mình với phần các yếu tố có thể phát sinh trong tương lai. Tuy như đã nói, những yếu tố ảnh hưởng nếu có phát sinh trong tương lai thực sự rất khó kiểm soát nhưng so về khả năng phân tích và dự đoán khả năng xảy ra của các sự kiện đó thì Kiểm toán viên là người có khả năng hơn so với các nhà quản lý. Nhận thấy được vai trò của mình, Kiểm toán viên cần hỗ trợ các nhà quản lý về mặt dự báo, dự đoán các rủi ro mà các vấn đề hiện tại có thể gây ra trong tương lai, giúp các nhà quản lý tránh được nhưng thiệt hại đồng thời nâng cao giá trị của kết luận trong báo cáo kiểm toán.

Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm toán viên và hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán:

Các cơ quan chủ quản, các công ty kiểm toán và các tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán cần thực hiện thường xuyên các khóa đào tạo và bồi dưỡng, cuối mỗi khóa cần tổ chức kiểm tra, viết thu hoạch và sử dụng kết quả này để đánh giá Kiểm toán viên. Bên cạnh đó định kỳ cần tổ chức các kỳ thi về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho kiểm toán viên; phối hợp với các tổ chức khác để đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho kiểm toán viên. Mặt khác, phải thường xuyên kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, có thể thành lập Ban kiểm soát chất lượng kiểm toán để thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ các chuẩn mực, qui trình, kế hoạch kiểm toán cũng như có thể kiểm toán lại một số báo cáo tài chính đã được kiểm toán  nếu cần.

Trên đây là một số ý kiến về ý kiến của Kiểm toán viên và của Công ty kiểm toán về báo cáo tài chính đã được kiểm toán ở Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, trong thời gian qua hoạt động kiểm toán ở nước ta đã có những thành tựu đáng kể về các mặt: phạm vi, nội dung, chất lượng kiểm toán, ... Những kết quả này đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xă hội, làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động kiểm toán cũng còn nhiều tồn tại cả về lý luận và thực tiễn. Những tồn tại này nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm toán, mong muốn rằng, trong thời gian tới, báo cáo tài chính của các đơn vị sau khi được các công ty kiểm toán và có ý kiến của kiểm toán viên sẽ bảo đảm tính "trung thực và hợp lý" cả về nghĩa đen và nghĩa bóng, góp phần khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư và của xã hội, tăng cường được tính công khai và minh bạch của các công ty, góp phần đưa thị trường chứng khoán non trẻ của chung ta đi vào quĩ đạo. 

 

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tài chính - Quyết định số 120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành và công bố 4 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.

2. Bộ Tài chính - Thông tư số 64/2004/TT-BTC ngày 29/6/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 của Chính phủ về kiểm toán độc lập.

3. GS. TS. Nguyễn Quang Quynh - TS. Ngô Trí Tuệ (2006) - Giáo trình Kiểm toán Tài chính - NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. 

4. GS. TS. Nguyễn Quang Quynh - TS. Nguyễn Thị Phương Hoa (2008) - Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán - NXB Tài chính.  

5. http://www.hse.org.vn/

6.http://www.ssc.gov.vn/ssc/Detail.aspx?tabid=950&ItemID=37545

7. http://www.hsx.vn/

8. http://vneconomy.vn/home.htm

9. Các bộ báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết đã kiểm toán.

10. V.v...
TIN MỚI CẬP NHẬT
LIÊN KẾT WEBSITE
TẠP CHÍ IN
  • Tổng mục lục năm 2021
  • Tổng mục lục năm 2020
  • Tạp chí số 146 (Tháng 12/2019)