Nằm cách không xa trung tâm Hà Nội nhưng làng Triều Khúc (Tân Triều, Thanh Trì, Hà Nội) vẫn mang đậm những nét tính cách làng quê xưa. Không chỉ là những ngày hội làng, những ngày lễ Tết, người dân nơi đây còn giữ lại được những nét truyền thống đáng quí của tục lệ cưới hỏi từ xưa dù ít nhiều đã có những khác biệt.
Cũng như nhiều làng quê khác, mỗi đám cưới của làng đều có ba lễ chính là lễ dạm ngõ (chạm ngõ, dạm hỏi), lễ ăn hỏi và lễ cưới. Tuy nhiên, trong mỗi lễ lại có những nét rất đặc trưng, mang đậm tính cách làng.
Dạm ngõ – ngày hai họ gặp nhau
Tuy được coi là một lễ quan trọng của đám cưới, là lần đầu tiên hai bên gia đình chính thức gặp mặt song “thành phần” hai họ tham gia lễ dạm ngõ rất đơn giản, chỉ cần bố mẹ và vài người họ hàng ruột thịt. Bố mẹ chú rể thậm chí có thể không có mặt mà chỉ cần chú bác trong nhà và một người không thể thiếu là người mai mối – người vốn quen biết hai bên gia đình và đã có công tác thành cho đôi trẻ. Lễ vật nhà trai mang đến cũng không có gì nhiều, chỉ là quả cau, cơi trầu, bầu rượu. Điều đặc biệt ở làng là trong tất cả các “giai đoạn” của đám cưới, từ lễ dạm ngõ, ăn hỏi đến lễ cưới sau này thì mẹ chú rể đều tuyệt đối không được tham gia bất kì một việc gì, thậm chí khi con dâu đã về đến nhà thì mẹ chồng phải tránh mặt (nhưng không mang theo bình vôi như phong tục nhiều nơi).
Tuy nhiên, lễ dạm ngõ chỉ là lễ mang tính chất “lấy chỗ đi lại”, là sự “báo cáo” với tổ tiên nhà gái là “đã có người để ý đến con cái nhà mình” và xin phép cho con trai nhà mình được qua lại tìm hiểu con gái nhà người mà thôi. Có thể sau lễ dạm ngõ, không có lễ cưới nào diễn ra, hai bên không trở thành thông gia, đôi trai gái lại có thể tìm hiểu “đám” khác nếu thấy hai người không hợp nhau hoặc hai gia đình không “môn đăng hộ đối” hoặc bất kì một cản trở nào khác khiến hai người không thể đến với nhau. Nếu chẳng may xảy ra chuyện này thì họ nhà gái có thể thưa chuyện lại với họ nhà trai một cách chính thức, cũng có thể chỉ “đánh tiếng” qua người mai mối mà thôi nhưng không có hình thức trả lại lễ vật.
Lễ ăn hỏi – chính thức kết thông gia
Đặt lễ vật lên bàn thờ gia tiên nhà gái, hai họ chính thức trở thành thông gia, đôi trai gái chính thức là dâu rể hai bên, là người một nhà, từ nay việc hiếu việc hỉ đều có sự tham gia của hai bên gia đình. Cũng như lễ dạm ngõ, lễ vật họ nhà trai mang sang không có gì nhiều, cũng chỉ là cành cau, cơi trầu, bầu rượu làm cớ mở đầu cho chuyện vui của hai gia đình.
Nếu như tục ăn hỏi của làng Triều Khúc không khác gì nhiều so với các làng quê khác thì tục “sêu” lại mang những nét rất đặc trưng. Ở đây, sêu không chỉ là sêu Tết của các chàng rể tương lai đối với bố mẹ vợ mà là của nhà trai đối với nhà gái và một năm có ít nhất ba lần sêu là Tết nguyên đán, Tết Đoan ngọ mồng 5 tháng 5 và Tết cơm mới xôi mới mồng 10 tháng 10. Lễ vật đi sêu là những sản vật quê mùa nào thức nấy rất đơn giản.
Tuy nhiên nhà gái không hề thách sêu mà đó hoàn toàn là tấm lòng của nhà trai đối với nhà gái. Trong quan niệm của người dân nơi đây, thách sêu khác gì… đem bán con gái cho nhà người. Sau khi đã lại quả cho nhà trai một nửa số lễ vật với quan niệm “cho đỡ mất lộc”, bố mẹ cô dâu đem những gì nhà trai đã sêu mời những người ruột thịt trong gia đình. Thậm chí, với những gia đình nghèo, đi sêu ít, nhà gái còn phải… bù thêm vào để mời mọi người. Nếu sau khi nhận sêu mà không mời sẽ bị mang tiếng là… tham! Do những “phiền hà” của tục sêu nên tục này không còn được lưu truyền. Những gia đình còn giữ lại cũng không còn nguyên vẹn như xưa. Đặc biệt, sau năm 1954 thì tục lệ này gần như đã mất hẳn.
Những năm trước đây, giữa lễ ăn hỏi và lễ cưới thường không cố định thời gian song nhất định phải qua một mùa sêu. Nếu như cưới ngay sau ăn hỏi khi chưa có một lần sêu nào thì đó là khi trong gia đình nhà trai hoặc nhà gái đang có tang ma hay có người ốm đau khó qua khỏi – cưới chạy tang hay những trường hợp “ăn cơm trước kẻng”. Chính vì vậy, để tránh điều tiếng không hay, đám cưới chỉ diễn ra sau khi đã có một lần sêu. Thậm chí có những đám cưới diễn ra sau cả năm trời, qua ba bốn lần sêu. Tuy nhiên, về sau này, khi tục sêu dần bị loại bỏ ở làng thì lễ ăn hỏi và lễ cưới có khi chỉ cách nhau một tuần thậm chí là 3 ngày mà thôi.
Lễ cưới – mừng cho hạnh phúc trăm năm
Với làng Triều Khúc thì lễ cưới không diễn ra vào tháng 7 – tháng ngâu và tháng 10. Còn trong tục xưa, lễ cưới còn không được tổ chức vào mùa hè từ tháng 3 đến tháng 7 âm lịch và cũng không cưới trong tháng Chạp. Nghĩa là đám cưới chỉ diễn ra trong 5 tháng là tháng 1, tháng 2, tháng 8, tháng 9 và tháng 11. Đối với con gái, làng còn kiêng các số 1, 3, 6, 8 tức là sẽ không cưới vào tuổi 18, 23, 26 và 28 cũng là kiêng tuổi Kim Lâu theo quan niệm xưa. Tuy nhiên, nếu để qua Đông chí mới tổ chức lễ cưới thì lại được chấp nhận vì theo quan niệm là đã “ăn” sang năm mới.
Cũng theo tục xưa, lễ đưa dâu chỉ diễn ra vào lúc chập choạng tối, giờ “gà lên chuồng”. Sau cách mạng, lễ này được diễn ra sớm hơn một chút vào buổi chiều nhưng tuyệt nhiên không đưa dâu vào buổi sáng. Một điều nữa rất đặc biệt ở đây là sau khi về nhà chồng làm lễ gia tiên xong, cô dâu lại theo họ nhà gái trở về nhà bố mẹ đẻ, chú rể sau đó mới chính thức qua đón vợ về nhà. Đến bây giờ, tục này vẫn còn được giữ với những đám cưới mà cô dâu chú rể đều là người trong làng.
Giống với nhiều làng quê Bắc Bộ khác, trong mỗi đám cưới xưa, trẻ con trong làng chăng những chiếc dây mảnh để ngăn đoàn đón dâu. Đoàn không bước qua cũng không phá dây mà đại diện họ nhà trai sẽ cho lũ trẻ bánh kẹo hoặc một ít tiền để thu dây lại. Tuy nhiên “chướng ngại vật” chưa phải là đã hết. Trước khi nhà trai đến, nhà gái liền đóng cổng (mà theo cách gọi của làng là “cổng ngõ”) và muốn cổng mở để vào xin dâu thì nhà trai hoặc phải có lễ vật, hoặc cử những người khéo ăn nói ra để “xin” nhà gái mở cổng. Với những gia đình có học, có khi nhà gái ra thách đố, nếu nhà trai giải được thì nhà gái mới mở cổng đón vào nhà. Cũng chính vì “công đoạn” này mà nhiều đoàn đón dâu của nhà trai phải “chon chân” đứng chờ trước “cổng ngõ” trong khi chờ người giải đố. Tiếc rằng, cùng với thời gian, cũng như nhiều vùng khác, tục chăng dây và đóng cổng đã không còn được người dân Triều Khúc lưu giữ.
Trước khi lễ cưới diễn ra, theo phong tục nơi đây còn có một lễ nhỏ là lễ dẫn cưới hay còn gọi là xin cưới. Trong lễ dẫn cưới, nhà trai mang bánh kẹo, cau trầu cùng một ít tiền sang cho nhà gái. Số tiền này bố mẹ cô dâu không dùng làm mâm cỗ cưới mà để cho con gái làm vốn về nhà chồng. Còn trong lễ cưới, nếu nhà gái thiếu trầu cau thì sẽ báo để nhà trai cử đại diện mang sang “tiếp tế” (chỉ khi thiếu trầu cau nhà gái mới xin nhà trai còn nếu thiếu chè nước, bánh kẹo hay bất cứ cái gì khác thì không) Tục xin trầu cau này chỉ mới bị mất đi khoảng vài chục năm trở lại đây và là một trong những tục cũ được gìn giữ lâu đời.
Theo Tiến sỹ Nguyễn Duy Huệ, Hiệu trưởng trường THCS Tân Triều, Thanh Trì, Hà Nội – một người sinh ra và lớn lên ở làng nghề này và cũng là người nhiều năm nghiên cứu văn hóa thì “Làng Triều Khúc nằm ở đồng bằng sông Hồng, chịu sự ảnh hưởng của tiểu vùng văn hóa sông Hồng. Những tập tục, lễ nghi cưới hỏi của làng cũng chịu ảnh hưởng của vùng văn hóa này. Tuy một số người cho rằng các tục xưa là lạc hậu, là cổ hủ nhưng theo tôi quan niệm đó là hết sức sai lầm. Những tục này chính là những nét văn hóa rất đáng trân trọng của làng Triều Khúc cũng như của tiểu vùng văn hóa sông Hồng.” Tuy chỉ có những khác biệt nhỏ về tiểu tiết trong các đám cưới đám hỏi so với phong tục các nơi, song đặt trong hệ thống các phong tục, lễ hội của làng thì đây chính là những khác biệt văn hóa rất đặc sắc và cần được lưu giữ của một làng quê không thuần nông.