Việc sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân (ban hành từ năm 2007, có hiệu lực từ năm 2009) sau hơn 15 năm áp dụng là cần thiết để bắt kịp biến động thực tế và được toàn xã hội mong đợi, với kỳ vọng không chỉ góp phần nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về thuế, mà còn hiện thức hóa chủ trương khoan sức dân, tạo động lực mới cho phong trào thi đua làm giàu, kích thích cả sản xuất và tiêu dùng, cả cung và cầu, góp phần cán đích tăng trưởng GDP 2 con số trong kỷ nguyên mới ở nước ta. Theo Bộ Tài chính, dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) dự kiến sửa đổi, bổ sung 30/35 điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành, theo đó: Tập trung sửa đổi, điều chỉnh và hoàn thiện các nội dung liên quan đến thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân và cách tính thuế đối với từng loại thu nhập chịu thuế; các khoản được miễn thuế thu nhập cá nhân; cách tính thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh; mức doanh thu chịu thuế đối với thu nhập của hộ, cá nhân kinh doanh; mức thuế suất đối với một số khoản thu nhập từ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ phần mềm; sản phẩm và dịch vụ nội dung thông tin số về giải trí, trò chơi điện tử, phim số, ảnh số, nhạc số, quảng cáo số…; mức giảm trừ khi tính thuế thu nhập cá nhân; giảm số bậc thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương tiền công; kỳ tính thuế, khấu trừ thuế, thời điểm xác định thunhập chịu thuế; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trả thu nhập và trách nhiệm của người nộp thuế. Đồng thời, bổ sung thêm quy định về nhóm thu nhập khác thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân; về miễn thuế, giảm thuế thu nhập cá nhân và về các khoản giảm trừ đặc thù khác. Ngoài ra, bổ sung thẩm quyền cho Chính phủ và Bộ Tài chính về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, ngưỡng doanh thu kinh doanh không phải nộp thuế thu nhập cá nhân; về phạm vi xác định các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được giảm trừ, các khoản giảm trừ đặc thù khác; về mức thu nhập thấp để xác định người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh và về mức tạm khấu trừ thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập vãng lai của cá nhân. Chính sách thuế thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản sẽ được chỉnh lý theo hướng sát với thực tế, minh bạch, công bằng hơn, đảm bảo đúng bản chất thu trên chênh lệch như mục tiêu ban đầu, ổn định thị trường và phù hợp thông lệ quốc tế. Cách tính thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng chứng khoán với thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng, thu theo từng lần giao dịch nhằm đơn giản hóa thủ tục và thuận tiện cho nhà đầu tư cá nhân, song không phù hợp với nhà đầu tư dài hạn hoặc có thu nhập biến động, đặc biệt khi phát sinh lỗ, nhưng không được hoàn thuế nếu không quyết toán. Theo đó, phương án cho phép cá nhân lựa chọn quyết toán vào cuối năm nhằm phản ánh đúng thu nhập thực tế, đảm bảo tính công bằng cũng được dự kiến. Trường hợp chia cổ tức bằng cổ phiếu, thuế thu nhập cá nhân không phát sinh tại thời điểm chia, mà sẽ được tính thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng khi cá nhân chuyển nhượng số cổ phiếu đó. Đặc biệt, các phương án điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cũng được cân nhắc có lợi hơn cho người dân và đảm bảo sự công bằng cho người nộp thuế, đồng thời tránh ảnh hưởng đột ngột đến nguồn thu ngân sách. Các cá nhân làm nội dung số, mạng xã hội được khấu trừ chi phí hợp lý tối đa 4 triệu đồng/tháng trước khi tính thuế nhằm phản ánh đúng chi phí thực tế phát sinh. Một nội dung được dư luận quan tâm nhất là đề xuất của Bộ Tài chính giảm số bậc trong biểu thuế thu nhập cá nhân xuống còn 5 bậc thay vì 7 bậc như quy định hiện hành và mức thuế suất cao nhất vẫn là 35%. Cụ thể, theo dự thảo, Bộ Tài chính đưa ra 2 phương án sửa đổi biểu thuế này theo hướng giảm số bậc và nới rộng khoảng cách thu nhập. Bộ Tài chính đưa ra 2 phương án sửa đổi biểu thuế thu nhập cá nhân Đối với cả 2 phương án được Bộ Tài chính đề xuất, mức thuế tối thiểu 5% tương ứng với thu nhập tính thuế trong tháng là 10 triệu đồng (sau khi giảm trừ gia cảnh, các chi phí tính thuế khác). Mức thuế tối đa là 35%, với thu nhập tính thuế trên 80 triệu đồng (phương án 1) và 100 triệu đồng trở lên (phương án 2). Việc thu hẹp số bậc thuế sẽ giúp đơn giản hóa trong quản lý, thu thuế, tạo thuận lợi cho kê khai và hội nhập xu hướng cải cách thuế trên thế giới. Đối với phương án 1, các cá nhân hiện nộp thuế từ bậc 2 trở lên sẽ được giảm thuế so với hiện nay; còn nếu kết hợp việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh thì cá nhân đang có thu nhập ở bậc 1 cũng đều được giảm thuế. Đối với phương án 2, cơ bản mọi cá nhân có thu nhập tính thuế từ 50 triệu đồng/tháng trở xuống sẽ được giảm thuế tương đương phương án 1. Đối với cá nhân có thu nhập tính thuế trên 50 triệu đồng/ tháng thì mức độ giảm sẽ nhiều hơn phương án 1, vì vậy số thu ngân sách nhà nước sẽ giảm nhiều hơn phương án 1. Trước hết, dư luận hoan nghênh việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân theo các mức lũy tiến từng phần là phù hợp xu hướng chung trên thế giới và việc giảm số bậc lũy tiến giúp đơn giản hóa biểu thuế. Hơn nữa, cũng cần thấy rằng, mức thuế cao nhất của Việt Nam chưa phải là mức cao trên thế giới. Trong khi đó, năm 2024, Phần Lan tăng thuế suất cao nhất từ 57% lên 57,3%; Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc có mức mức thuế suất cao nhất 45% và Philippines, Indonesia có mức 35%. Riêng số bậc thuế dao động từ 5 đến 13 bậc ở châu Á, còn ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Úc, phần lớn các quốc gia áp dụng từ 5 đến 6 bậc thuế. Như vậy, việc thực hiện theo 2 phương án đều đáp ứng được mục tiêu giảm bậc, điều chỉnh thu nhập tính thuế ở từng bậc, tuy nhiên, ảnh hưởng của 2 phương án là khác nhau. Đồng thời, tại dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân, Bộ Tài chính đề xuất 2 phương án. Phương án 1: Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo tốc độ tăng CPI theo quy định. Cụ thể: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 13,3 triệu đồng/tháng; Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 5,3 triệu đồng/tháng. Phương án 2: Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng GDP bình quân đầu người. Cụ thể: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 15,5 triệu đồng/tháng; Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 6,2 triệu đồng/tháng. Vấn đề mà dư luận hiện băn khoăn là tại sao chỉ có 2 phương án điều chỉnh được đề xuất gắn với mức trượt CPI (phương án 1) và mức gia tăng quy mô GDP/người (phương án 2), khiến mức ngưỡng chịu thuế và giảm trừ gia cảnh vẫn lạc hậu so với thực tiễn hiện nay. Năm 2020, mức lương cơ sở ở mức 1,49 triệu đồng/tháng. Hiện nay, mức lương này đã tăng lên 2,34 triệu đồng - tức tăng hơn 57% - nhưng mức giảm trừ gia cảnh vẫn giữ nguyên ở mức cũ. Điều này khiến không ít người lao động cảm thấy thiệt thòi. Đồng thời, khoảng cách giữa các bậc thuế rất gần tạo ra tâm lý lo ngại về việc mức thuế phải nộp tăng cao. Điều này cũng khiến cho việc tính thuế trở nên khó khăn, phức tạp hơn đối với cả người nộp thuế và cơ quan thuế. Chính những yếu tố đó dẫn đến tâm lý e ngại, thậm chí có xu hướng trốn thuế ở một bộ phận người nộp thuế, do cảm thấy không được khuyến khích phấn đấu thu nhập. Hiện nay, mức thu nhập chịu thuế sau giảm trừ là 11 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, một số địa phương như Hà Tĩnh, Ninh Thuận đã đề xuất nâng mức này lên 16 đến 18 triệu, thậm chí 20 đến 25 triệu đồng/tháng, với lý do phản ánh sát hơn chi phí sinh hoạt thực tế. Thực tế tại các đô thị lớn cho thấy, với mức thu nhập 11 triệu đồng/tháng - là ngưỡng chịu thuế hiện nay - nhiều người dân cho biết thu nhập này hầu như chỉ đủ chi trả tiền thuê nhà và học phí cho con. Việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo chỉ số CPI hay theo thu nhập bình quân đầu người đều có lý do riêng từ phía cơ quan chức năng. Tuy nhiên, câu hỏi khác đặt ra là tại sao không có phương án 3, trong đó có mức ngưỡng chịu thuế mới và mức chiết trừ gia cảnh được tính toán dựa vào cả 2 mức trượt CPI và mức gia tăng quy mô GDP/người. Nói cách khác, khi cơ quan chức năng dựa trên cơ sở dữ liệu về thu nhập và người nộp thuế, cũng như xác định đúng mức sống tối thiểu thực tế làm căn cứ giúp chính sách thuế được xây dựng chính xác và công bằng hơn, đưa thêm phương án 3 xử lý tất cả những vướng mắc mà người dân băn khoăn, cũng như bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước và người dân, xã hội; nỗ lực hướng tới mục tiêu cao nhất của công cuộc Đổi mới, phát triển và hội nhập trong Kỷ nguyên vươn mình là lấy hạnh phúc của người dân là thước đo thành tựu năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, lấy con người là động lực và mục tiêu cao nhất của toàn bộ quá trình phát triển đất nước… Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc tại cuộc họp chiều ngày 31/7 với các bộ, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp chứng khoán, bất động sản, việc sửa đổi dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân lần này phải đảm bảo đúng quy định pháp luật hiện hành, công bằng, hiệu quả, phù hợp, minh bạch trong áp dụng thực tiễn… Dư luận quan tâm và kỳ vọng, dự thảo Luật cần cân nhắc và đánh giá kỹ lưỡng tác động khi thiết kế các nội dung liên quan mức thuế và lộ trình tính thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản và chứng khoán (cổ phiếu, cổ tức, cổ phiếu thưởng) và mức giảm trừ gia cảnh cho phù hợp với mức sống của người dân và từng địa phương, cũng như để phát triển thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán lành mạnh. Khi người dân “tâm phục khẩu phục”, đồng thuận và đoàn kết xã hội cao, thì mọi việc quốc kế dân sinh sẽ không còn là khó khăn, các giá trị xã hội chuẩn chung sẽ được củng cố và lợi ích quốc gia sẽ được bảo vệ vững chắc. Tác giả: TS Nguyễn Minh Phong, Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên truyền lý luận, Báo Nhân dân (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)