![]()
|
Chủ trương tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị gồm thu hẹp số lượng bộ, ban, ngành, giảm số lượng tỉnh, bỏ cấp huyện, giảm số lượng xã, thực hiện mô hình địa phương 2 cấp là một chủ trương đúng đắn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu năng và hiệu quả của hệ thống chính trị trong giai đoạn phát triển vươn mình để đưa đất nước từ thu nhập trung bình thấp lên thu nhập trung bình cao năm 2030 và nước công nghiệp có thu nhập cao năm 2045 [3]. Quá trình tinh gọn làm xuất hiện tình trạng dư dôi tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, cần có giải pháp quản lý, sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí. Đây là một vấn đề đang được triển khai thực hiện cho nên chưa có nhiều nghiên cứu ở Việt Nam tính đến thời điểm hoàn thành bài viết này. Để giải quyết vấn đề đặt ra, bài viết sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh với dữ liệu được thu thập từ các nguồn chính thức như các văn bản chính thức của hệ thống chính trị, Tổng cục Thống kê và các nghiên cứu chuyên sâu.
![]()
|
Tinh gọn tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị
Tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị là quá trình chuyển hóa từ cơ cấu thực thể với rất nhiều đầu mối quản lý, nhiều đơn vị trong hệ thống, thường có tình trạng chồng chéo, trùng lặp sang cơ cấu chức năng với số lượng tối thiểu đầu mối, cấp trung gian nhưng tối đa hóa chức năng vận hành. Quá trình này rút ngắn độ cao quyền lực, mở rộng phạm vi vận hành của cấp cơ sở, trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả, gia tăng hiệu lực và cải thiện hiệu năng quản lý. Đây là giải pháp mang tính đột phá để đưa quá trình cải cách bộ máy đi vào thực chất, phù hợp với xu hướng phát triển của khoa học quản trị hiện đại và thực hiện quyết liệt đột phá chiến lược về hoàn thiện thể chế phát triển [3]. Để bộ máy vận hành, cần có trụ sở làm việc đúng tiêu chuẩn quy định như diện tích, thiết kế văn phòng, công năng của công trình, thiết bị phục vụ, bộ phận lưu trữ, hệ thống điện, nước, thiết bị an ninh, thiết bị chiếu sáng, thiết bị bảo vệ, phương tiện đi lại. Hầu như mỗi cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm việc trong bộ máy hệ thống chính trị đều có mức độ trang bị tài sản nhất định để thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ theo quy định. Khi họ không còn đảm nhiệm vị trí công việc đó, lượng tài sản công bị dư dôi. Sau khi sắp xếp, sáp nhập, tổ chức bộ máy của Chính phủ giảm 5 bộ, 3 cơ quan thuộc Chính phủ. Theo đó, bộ máy của Chính phủ sẽ được tinh gọn từ 30 xuống còn 22 đầu mối (giảm 8 đầu mối) gồm: 14 bộ, 4 cơ quan ngang bộ và 5 cơ quan thuộc Chính phủ. Tỷ lệ giảm số bộ và cơ quan ngang bộ là 26,7%.
Số lượng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam trước sắp xếp là 63 và sau sắp xếp là 34, giảm 46%. Đối với cấp huyện, trước sắp xếp cả nước có 696 huyện bao gồm: 2 thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, 84 thành phố thuộc tỉnh, 53 thị xã, 49 quận và 508 huyện. Sau sắp xếp con số này là 0 và tỷ lệ giảm 100%. Số xã cả nước trước sắp xếp là 10.035 xã và sau sắp xếp chỉ còn 3.321 xã, giảm 67%.
Tính tổng thể số đầu mối đơn vị hành chính Việt Nam trước sắp xếp có 10.824, sau sắp xếp chỉ còn 3.377 giảm 7.447 đầu mối hay giảm 68,8% (Bảng 1). Có thể nói đây là một đợt tinh gọn đáng kể bộ máy hệ thống chính trị sau khoảng 35 năm chia tách. Như vậy, có thể thấy với hơn 30% đầu mối còn lại phải giải quyết 100% công việc thuộc về chức năng, nhiệm vụ của bộ máy hệ thống chính trị. Hơn nữa, trong giai đoạn vươn mình, với yêu cầu tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội 8% năm 2025 và tăng trưởng trên 2 con số từ năm 2026, nhiệm vụ đặt ra đối với bộ máy ngày càng to lớn và vẻ vang hơn.
Bộ máy hệ thống chính trị được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng sẽ quát triệt tối đa nguyên tắc tập trung, dân chủ, cán bộ quản lý sẽ gần gũi, sâu sát nhân dân hơn, tính chất quan liêu của bộ máy sẽ được giảm thiểu, chất lượng phục vụ Nhân dân và đất nước sẽ được thực hiện hiệu quả hơn. Với nhiệm vụ như trước, thậm chí còn tăng lên nhưng nhân lực giảm xuống đáng kể, để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, bắt buộc đội ngũ phải có phương pháp làm việc khoa học, sáng tạo, năng suất cao và hiệu quả cao nhất.
![]()
| ![]()
|
Tình trạng dư dôi tài sản công sau tinh gọn
Việc sắp xếp bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn góp phần làm tinh gọn lượng tài sản công sử dụng cho bộ máy, theo đó xuất hiện tình trạng dư dôi tài sản công. Đây là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu sử dụng và thống nhất quản lý (Hiến pháp 2013, Điều 53) cần được quản lý, sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí.
Theo quan sát của tác giả, các loại tài sản công dư dôi sau sắp xếp bao gồm:
1. Đất đai, công trình xây dựng như hội trường, phân khu chức năng của Ủy ban nhân dân, sở, ban, ngành, nhà công vụ, công trình văn hóa, nhà kho, nhà để xe, thể thao, hệ thống đường sá, điện, nước, trường, trạm, công viên, vườn hoa, bồn hoa, sông, hồ, cây xanh. Tình trạng dư dôi tài sản công sau tinh gọn Việc sắp xếp bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn góp phần làm tinh gọn lượng tài sản công sử dụng cho bộ máy, theo đó xuất hiện tình trạng dư dôi tài sản công. Đây là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu sử dụng và thống nhất quản lý (Hiến pháp 2013, Điều 53) cần được quản lý, sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí.
2. Các loại phương tiện vận tải như xe ô tô các loại, xe máy, các loại phương tiện vận tải, bốc xếp khác cũng như các loại vật tư, nguyên, nhiên liệu, công cụ được sử dụng để phục vụ vận hành, sửa chữa, thay thế.
3. Các loại thiết bị điện, điện tử như máy phát điện, máy bơm nước, máy lọc nước, thiết bị bếp tập thể, điều hòa, quạt máy, tủ lạnh, ấm đun nước, máy tính, máy phát wifi, mạng internet, hệ thống cáp điện, ti vi, màn hình, thiết bị an ninh, dụng cụ bảo vệ, thiết bị phòng cháy chữa cháy.
4. Các loại thiết bị văn phòng như bàn, ghế, ấm chén, tủ tài liệu, các loại tranh, ảnh hoặc vật trang trí khác, các loại dụng cụ để sửa chữa, bảo trì, bảo dưỡng thiết bị.
5. Các loại tài liệu, thông tin, cơ sở dữ liệu, nền tảng, ứng dụng công nghệ thông tin, hồ sơ công dân, hợp đồng, thỏa thuận, hiệp định, tài liệu dự án, chương trình đầu tư, phát triển, sách, báo, tạp chí và tài liệu khác.
6. Các loại tài sản trí tuệ như sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, tên gọi xuất xứ, nhãn hiệu hàng hóa, logo đã đăng ký bản quyền.
| ![]()
|
Các loại tài sản công dư dôi rất đa dạng. Mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức về tình trạng dư dôi tài sản công sau sắp xếp bộ máy, nhưng có thể ước tính với những số liệu ban đầu về quy mô dư dôi này khi bộ máy được tinh gọn, chủ thể sử dụng được rút xuống. Thực chất đây là những tài sản đã qua sử dụng và nếu tiến hành định giá tài sản, có thể thấy hầu hết các tài sản này đều đã khấu hao trong một khoảng thời gian nhất định và cũng bị hao mòn vô hình chỉ trừ đất đai và các công trình xây dựng gắn liền với đất đang có xu hướng tăng giá mạnh, nhất là sau khi Luật Đất đai và Luật Đấu giá tài sản được sửa đổi, bổ sung năm 2024.
Nếu tính riêng về diện tích đất đai, giả sử mỗi trụ sở ủy ban nhân dân cấp tỉnh có quy mô sử dụng 50 ha, cấp huyện 35 ha, cấp xã 5 ha. Đây là những nơi đặt trụ sở trung tâm của đơn vị hành chính cho nên thường có vị trí rất thuận lợi về giao thông, nằm ngay trung tâm dân cư, gần trung tâm thương mại, văn hóa, giao thông thuận tiện, cơ sở hạ tầng như điện, nước, internet đầy đủ và chất lượng tốt nhất cho nên giá trị quyền sử dụng đất rất cao nếu chưa nói là cao nhất so với các khu vực khác trong phạm vi cấp xã, huyện, tỉnh. Giả sử mức giá thị trường trung bình cả nước ở các địa điểm trung tâm này vào khoảng 100 triệu đồng/m2 (0,1 tỷ đồng/m2 hay 103 tỷ đồng/ha) cá biệt có những nơi đấu giá đất, mức giá bình quân còn cao hơn nhiều lần con số giả định này.
Với số liệu giả định trên đây, số lượng quỹ đất dư dôi cả nước có giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường vào khoảng:
(29 tỉnh*50 ha + 696 huyện*35 ha + 6714 xã*5 ha)*104*0,1tỷ=59.380ha*103 tỷ đồng/ha hay 59 triệu tỷ đồng Việt Nam (gấp khoảng hơn 5 lần GDP của cả nước năm 2024).
Với con số khổng lồ này của giá trị quyền sử dụng đất, cần phải có giải pháp quản lý, sử dụng hiệu quả để tránh thất thoát, lãng phí tài sản công thuộc sở hữu toàn dân.
Bên cạnh đất đai, còn có các loại tài sản khác như được tổng hợp trên đây chưa được định giá đầy đủ. Có những loại tài sản qua sử dụng bị hao mòn hữu hình và vô hình cho nên sẽ giảm giá đáng kể so với nguyên giá. Loại tài sản này càng để lâu không sử dụng càng bị giảm giá mạnh cho nên cần được sử dụng liên tục để tránh lãng phí. Đồng thời, cũng có loại tài sản vẫn giữ nguyên giá hoặc tăng giá và cần có giải pháp khai thác phù hợp để chúng phát huy tác dụng, tạo giá trị tối đa.
|
Giải pháp quản lý, sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí tài sản công dôi dư
Tài sản công dư dôi sau sắp xếp bộ máy thuộc sở hữu toàn dân phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, sử dụng hiệu quả và cần có sự giám sát của Nhân dân - chủ sở hữu thực sự của tài sản. Đây là loại tài sản xuất hiện từ việc sắp xếp bộ máy cho nên cần có một cơ quan chuyên trách độc lập có chức năng quản lý thống nhất để bảo toàn giá trị và làm tăng giá trị của chúng theo nguyên tắc thị trường.
Giải pháp 1: Thực hiện thống kê, kiểm kê đầy đủ tất cả các loại tài sản trước và sau tinh gọn để hiểu rõ thực trạng dư dôi tài sản, định giá tài sản, mục đích sử dụng. Việc thống kê, kiểm kê cần thực hiện theo những nguyên tắc thống nhất để tránh bị thất thoát hoặc lãng phí. Tuyệt đối tránh tình trạng tài sản không được sử dụng, không phát huy vai trò, vừa tăng chi phí lưu giữ, bảo quản, vừa bị hao mòn vô hình thậm chí bị hỏng hóc. Do đó, cần thành lập ban chuyên trách thống kê, kiểm kê tài sản từng cấp trong hệ thống thống kê, kiểm kê tài sản dư dôi thống nhất.
Giải pháp 2: Xây dựng cơ chế quản lý, sử dụng tài sản hiệu quả. Cơ chế này cần quy định cho phép sử dụng lại các loại tài sản công vào mục đích công như chuyển từ các đơn vị giải thể sang các đơn vị đang hoạt động hay mới được thành lập có nhu cầu thực sự về tài sản này bằng cơ chế chuyển nhượng cụ thể và quy định rõ trách nhiệm tài sản của bên tiếp nhận và bên chuyển nhượng theo đúng quy định pháp luật. Do đó, cần thực hiện công tác thống kê nhu cầu từ những đơn vị hành chính mới sau sắp xếp hoặc các đơn vị hành chính như trường học, bệnh viện, trạm y tế, thiết chế văn hóa, trạm thủy lợi… để ước lượng tổng nhu cầu về tài sản công theo nguyên tắc tối giản và tiết kiệm. Việc thành lập sàn giao dịch trực tuyến tài sản công dư dôi sau sắp xếp cần được tiến hành khẩn trương để đơn vị có nhu cầu sử dụng và đơn vị có tài sản dôi dư kết nối trực tiếp nhằm tận dụng triệt để tài sản đã qua sử dụng, tuyệt đối tránh tình trạng đơn vị có nhu cầu không có tài sản sử dụng còn đơn vị dư dôi sử dụng được lại để không những tài sản có giá trị cao như giá trị quyền sử dụng đất, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải… nếu chuyển nhượng, chuyển đổi mục đích sử dụng hay mua - bán1 cần định giá theo Luật Đấu giá để bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Những tài sản hết thời hạn khấu hao theo quy định nên thực hiện thủ tục thanh lý, hóa giá và giá trị thu hồi phải được nộp ngân sách nhà nước.
Giải pháp 3: Tăng cường trách nhiệm giám sát của các tầng lớp nhân dân và kiểm tra, thanh tra khi cần thiết. Nhân dân là chủ sở hữu đích thực tài sản công (Điều 53, Hiến pháp 2013) cho nên là chủ thể giám sát đầy đủ và triệt để việc thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Để tránh tình trạng buông lỏng quản lý tài sản công dư dôi, cần tăng cường giám sát của các tầng lớp nhân dân trong suốt vòng đời của tài sản. Cần có cơ chế tăng cường sự giám sát của Nhân dân trong quản lý, sử dụng, khai thác, bảo dưỡng, bảo trì, sửa chữa, định đoạt tài sản. Cơ quan quản lý cần có trách nhiệm giải trình đầy đủ về tình trạng tài sản khi có yêu cầu từ Nhân dân. Đồng thời, cần có các hoạt động kiểm tra, thanh tra tình hình quản lý, sử dụng tài sản công để tăng cường trách nhiệm của các bên liên quan trong bảo vệ tài sản công hiệu quả và xử lý nghiêm theo quy định pháp luật đối với các hành vi tham ô, lãng phí hoặc quản lý, sử dụng tài sản công thiếu hiệu quả.
Giải pháp 4: Ứng dụng những tiến bộ mới nhất của công nghệ thông tin để thống kê, kiểm tra, đánh giá, quản lý, sử dụng tài sản công dư dôi. Tiến bộ mới nhất của công nghệ thông tin như khoa học dữ liệu, trí tuệ nhân tạo... cung cấp công cụ quan trọng để thống kê nhanh chóng, đồng bộ, kết nối dữ liệu, phân loại tài sản kể cả ước lượng giá trị hiện còn của tài sản công dư dôi. Việc phát triển và khai thác các nền tảng thông tin trực tuyến dùng chung trong cả nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hiểu rõ thực trạng tài sản công dư dôi, nguồn cung, cầu và địa điểm hiện tại của các tài sản đó và nâng cao hiệu năng quản lý. Do đó, cần có sự tham gia của các tập đoàn công nghệ có khả năng tạo ra được các nền tảng, ứng dụng phục vụ công tác kiểm kê, kiểm tra, đánh giá, quản lý, sử dụng hiệu quả tài sản công dư dôi này. Các cơ quan quản lý nên đặt hàng cho các công ty công nghệ phát triển các nền tảng và ứng dụng này để tạo thuận lợi trong quản lý, tăng tốc công tác kiểm kê tài sản, bảo đảm tiêu chuẩn và kịp thời kết nối cung - cầu tài sản. Thậm chí, nền tảng này còn tạo tiền đề để hình thành thị trường tài sản công dư dôi sang sắp xếp bộ máy, giảm thiểu cách làm mang nặng tính hành chính, gây tốn kém thời gian và làm chậm tiến trình khai thác hiệu quả tài sản.
Giải pháp 5: Khuyến khích các cá nhân, tổ chức và các tầng lớp nhân dân đề xuất sáng kiến quản lý, sử dụng tối ưu tài sản cùng với sáng kiến chống sử dụng tài sản lãng phí. Việc quản lý, sử dụng tài sản dư dôi sau sắp xếp bộ máy hệ thống chính trị là một vấn đề mới, có phạm vi rộng và mức độ tác động rất lớn. Cần có cơ chế khuyến khích vật chất và tinh thần đối với các cá nhân, tổ chức và Nhân dân có sáng kiến, hiến kế có giá trị trong xây dựng mô hình quản lý, sử dụng hiệu quả. Đồng thời, cũng cần có hình thức khuyến khích thỏa đáng sáng kiến chống lãng phí tài sản công để áp dụng rộng rãi ở tất cả các cấp, ngành, địa phương, đơn vị.
Giải pháp 6: Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý
Điều chỉnh quy hoạch địa phương khoa học, cập nhật và phù hợp với khuôn khổ phát triển mới. Bảo đảm nguyên tắc công khai, minh bạch tài sản công trước và sau tinh gọn, nguyên giá, khấu hao, hao mòn hữu hình và vô hình bằng một báo cáo đánh giá, kiểm kê khách quan, đầy đủ, toàn diện, bảo đảm không có tài sản nào bị bỏ sót. Do đó, cần có cơ chế giám sát có sự tham gia của cơ quan quản lý và đại diện của các tầng lớp nhân dân. Để bảo đảm nguyên tắc này, cần có trang thông tin đăng công khai tình trạng tài sản công dư dôi sau khi đã có phương án sử dụng triệt để.
Giải trình rõ ràng về thực chất của sự dư dôi, quy mô dư dôi và phương án xử lý tài sản dư dôi để quản lý, sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí. Việc giải trình này cần gắn với việc xây dựng phương án quản lý, sử dụng tài sản tối ưu. Do đó, cần có mô hình quản lý, sử dụng tài sản này phù hợp.
Xây dựng hệ thống văn bản, quy định rõ ràng, chặt chẽ và khoa học về quản lý và sử dụng tài sản dư dôi để các đơn vị áp dụng ngay từ khi tinh gọn. Các loại văn bản này cần gắn với các đạo luật mới được sửa đổi, bổ sung như Luật Đất đai, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đấu giá… Cũng cần coi trọng truyền thông rộng rãi về tài sản công dư dôi, tổ chức các khóa tập huấn, phát hành tài liệu hoặc cẩm nang, sổ tay hướng dẫn sử dụng các loại tài sản công dư dôi này hiệu quả.
Kết luận
Tinh gọn bộ máy là cách thức rút gọn đầu mối, giảm số nhân lực và tối giản tài sản công sử dụng. Đây là chủ trương đúng đắn, góp phần tăng hiệu năng, hiệu lực và hiệu quả bộ máy quản lý. Việc sắp xếp bộ máy sẽ dẫn đến tình trạng dư dôi đáng kể tài sản công và cần giải pháp quản lý, sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí.
Các loại tài sản này có quy mô rất lớn bao gồm giá trị quyền sử dụng đất ở những trung tâm hành chính cấp tỉnh, huyện, quận, xã và lực lượng vũ trang cũng như các loại tài sản công khác đã qua sử dụng. Mặc dù chưa có con số thống kê, nhưng có thể thấy giá trị của các tài sản này rất lớn, nếu quản lý, sử dụng có hiệu quả, sẽ tạo khả năng sinh lợi rất lớn.
Các giải pháp cần thực hiện đồng thời, đồng bộ phù hợp với phương châm chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm “Vừa chạy, vừa xếp hàng”. Cần thực hiện cuộc tổng kiểm kê và đánh giá đầy đủ tài sản công dư dôi sau sắp xếp bộ máy theo đúng quy định pháp luật. Việc làm này có thể được thực hiện bằng một đơn vị chuyên trách độc lập. Cần có thứ tự ưu tiên rõ ràng. Những tài sản có thể sử dụng lại bởi cơ quan hành chính mới chưa cần mua sắm để tiết kiệm kinh phí cho ngân sách cần tận dụng triệt để. Những tài sản có giá trị cao chuyển đổi mục đích sử dụng cần thực hiện định giá theo Luật Đấu giá. Những tài sản được coi “rẻ và nhanh hỏng” nên tận dụng khai thác khi vẫn có khả năng tận dụng trên cơ sở cung ứng cho các đơn vị hành chính sự nghiệp có nhu cầu như trụ sở mới, trường học, bệnh viện, trạm y tế, trạm thủy lợi... Các tài sản hết khâu hao cần thanh lý đúng quy định.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Chính trị, Ban Bí thư (2025), Kết luận 127, 134,135,136,137,138,139-KL/TW về triển khai sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị;
2. Chính phủ (2025), Nghị quyết 74/NQ-CP ngày 07/4/2025 ban hành Kế hoạch sắp xếp đơn vị hành chính, xây dựng mô hình chính quyền địa phương 2 cấp;
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội XIII, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật;
4. Quốc hội, Luật Đất đai số 31/2024/QH15;
5. Quốc hội, Luật số 56/2024/QH 2015, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Luật Dự trữ quốc gia, Luật Xử lý vi phạm hành chính;
6. Quốc hội, Luật số 01/2016/QH14, Luật Đấu giá tài sản;
7. Quốc hội, Hiến pháp Việt Nam 2013;
8. Quốc hội, Luật số 09/2008/QH12, Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước;
9. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 759/QĐ-TTg ngày 14/4/2025quyết định phê duyệt Đề án sắp xếp, tổ chức lại đơn vị hành chính các cấp và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp
Trình bày: Khánh An |
![]()
|