Thực hiện Nghị quyết Quốc hội khoá XII về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XII (2007-2011) và năm 2008; Chính phủ đã giao Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu xây dựng Dự án Luật Kiểm toán độc lập
Hoàn thiện cơ chế kiểm soát chất lượng Kiểm toán
HOẠT ĐỘNG NGHỀ NGHIỆP KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN TRÊN THẾ GIỚI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU, BAN HÀNH LUẬT KIỂM TOÁN DỘC LẬP NHẰM GÓP PHẦN HOÀN THIỆN CƠ CHẾ KIỂM SOÁT CHẤT LƯỢNG DỊCH VỤ KIỂM TOÁN
Kiểm toán độc lập là hoạt động dịch vụ có tính pháp lý cao, góp phần quan trọng làm lành mạnh hoá môi trường đầu tư ở Việt Nam và minh bạch nền tài chính quốc gia, mặc dù đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển chung của đất nước nhưng đến nay văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động kiểm toán độc lập chỉ là Nghị định của Chính phủ là chưa tương xứng với tầm quan trọng và quy mô phát triển của ngành nghề kinh doanh có điều kiện này. Do đó cần phải xây dựng một văn bản luật để quy định và định hướng phát triển cho hoạt động kiểm toán độc lập trong tương lai gần nhằm tăng cường hơn nữa vị trí, vai trò hoạt động kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân. Từ đó thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của kiểm toán độc lập, đáp ứng xu thế phát triển kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế thế giới, thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế.
Thực hiện Nghị quyết Quốc hội khoá XII về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khoá XII (2007-2011) và năm 2008; Chính phủ đã giao Bộ Tài chính phối hợp với các Bộ, ngành liên quan nghiên cứu xây dựng Dự án Luật Kiểm toán độc lập.
Theo Nghị định về kiểm toán độc lập, Bộ Tài chính là cơ quan quản lý nhà nước về kiểm toán, nhưng theo thông lệ quốc tế, kiểm toán độc lập là hoạt động độc lập, khách quan, KTV hành nghề phải là hội viên, phải đăng ký và chịu sự quản lý hành nghề bởi 1 tổ chức hội nghề nghiệp mà cơ quan nhà nước không trực tiếp quản lý các hoạt động kinh doanh và quản lý hành nghề. Để Luật kiểm toán độc lập được xây dựng trên cơ sở tham khảo có chọn lọc nội dung các quy định pháp lý liên quan đến Hội nghề nghiệp về kiểm toán hiện hành của các nước trong khu vực và trên thế giới và phù hợp với tiến trình hội nhập, chúng ta cần thu thập, khảo sát kinh nghiệm hoạt động nghề nghiệp kế toán, kiểm toán trên thế giới để có qui định cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam như sau:
Phần thứ nhất: Hoạt động nghề nghiệp kế toán, kiểm toán trên thế giới và thực trạng ở Việt Nam
1/ Hoạt động nghề nghiệp kế toán, kiểm toán trên thế giới:
Trong điều kiện kinh tế thị trường, báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải trung thực, minh bạch và công khai vì liên quan đến lợi ích, nghĩa vụ của nhiều nhà đầu tư. Để góp phần đảm bảo yêu cầu trên, những người làm nghề kế toán, kiểm toán đã lập ra các tổ chức nghề nghiệp độc lập để thực hiện trách nhiệm đào tạo, xác nhận năng lực, cung cấp thông tin và quản lý đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán cho những người hành nghề này. Nhờ đó uy tín, danh tiếng của những người hành nghề ngày càng được nâng cao, được không chỉ từng nước mà nhiều nước thừa nhận, như Hiệp Hội kế toán công chứng Anh (ACCA) hiện có 122.000 Hội viên , 80 văn phòng đại diện trên 64 nước trên thế giới, đã có văn phòng và 220 hội viên ở Việt Nam; Hội kế toán công chứng Australia (CPAA) hiện có 117.00 Hội viên, 10 văn phòng đại diện trên thế giới, có văn phòng và 125 Hội viên ở Việt Nam. Cơ quan Nhà nước các nước trên đã thừa nhận kết quả hoạt động của các Hội nghề nghiệp này. Tuy nhiên Nhà nước vẫn thực hiện sự kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các Hội nghề nghiệp này.
(1) Chức năng, nhiệm vụ của các Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán:
a) Các Hội nghề nghiệp quốc tế như ACCA, CPAA:
Các Hội nghề nghiệp quốc tế như ACCA, CPAA… thường được Nhà nước thừa nhận các chức năng, nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu, soạn thảo, ban hành và công bố các Chuẩn mực kế toán, Chuẩn mực kiểm toán và Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp; Ban hành các tài liệu hướng dẫn thực hiện Chuẩn mực kế toán, Chuẩn mực kiểm toán;
- Tổ chức các khoá đào tạo, tổ chức thi và cấp chứng chỉ Hội viên (Chứng chỉ hành nghề) trên cơ sở tài liệu do Hội yêu cầu, biên soạn cho các đối tượng sau khi đạt kỳ thi và có đủ 3-5 năm kinh nghiệm thực tế mới được là Hội viên chính thức của Hội;
- Tổ chức cập nhật kiến thức mới hàng năm cho Hội viên; Cung cấp thông tin nghề nghiệp và tư vấn chuyên môn cho Hội viên;
- Kiểm soát chất lượng cung cấp dịch vụ của Hội viên; Quản lý đạo đức nghề nghiệp và xử lý các sai phạm của Hội viên.
Hội viên của các Hội nghề nghiệp quốc tế muốn hành nghề ở một nước nào đó bắt buộc phải tham dự kỳ thi đầy đủ hoặc kỳ thi chuyển đổi để lấy chứng chỉ hành nghề kế toán, kiểm toán và trở thành Hội viên của Hội nghề nghiệp của nước đó.
b) Các Hội nghề nghiệp của từng quốc gia:
Các Hội nghề nghiệp của từng quốc gia ở các nước đã và đang phát triển được Nhà nước giao cho thực hiện các chức năng, nhiệm vụ tương tự như các chức năng, nhiệm vụ của các Hội nghề nghiệp quốc tế. Riêng 2 loại công việc sau trong từng quốc gia, Nhà nước giao cho các Hội nghề nghiệp có sự khác nhau là:
- Việc công bố các Chuẩn mực kế toán, Chuẩn mực kiểm toán có 3 cách thức triển khai: (1) Giao cho Hội nghề nghiệp thực hiện, (2) Hội nghề nghiệp nghiên cứu, soạn thảo trình Nhà nước ban hành và công bố, (3) Cơ quan Nhà nước có sự phối hợp của Hội nghề nghiệp nghiên cứu, soạn thảo, ban hành và công bố.
- Việc tổ chức thi và cấp chứng chỉ hành nghề có 2 cách thức triển khai: (1) Hội nghề nghiệp thực hiện được Nhà nước thừa nhận; (2) Cơ quan Nhà nước có sự phối hợp của Hội nghề nghiệp tổ chức thực hiện.
(2) Về số lượng các Hội nghề nghiệp trong từng quốc gia: Thực tế, hiện nay nhiều nước trên thế giới đang tồn tại nhiều Hội nghề nghiệp và các Hội nghề nghiệp này đều là thành viên của Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC), như: Australia có 3 Hội, Malaysia có 2 Hội, Vương quốc Anh có 5 Hội, Bangladesh có 2 Hội, Ấn Độ có 2 Hội…
(3) Về Hội viên:
Theo thông lệ chung của các nước, người hành nghề kế toán, kiểm toán bắt buộc phải là Hội viên của Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán tại nước mà người đó hành nghề. Do vậy người hành nghề có thể đồng thời là Hội viên của các Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán khác nhau như: Người hành nghề là Hội viên của Hội nghề nghiệp quốc tế (Do đạt kỳ thi, được cấp chứng chỉ hành nghề và được gia nhập Hội viên), đồng thời là Hội viên của Hội nghề nghiệp nước sở tại (Do đạt kỳ thi, được cấp chứng chỉ hành nghề và gia nhập Hội viên để hành nghề ở nước sở tại) và là Hội viên của Hội nghề nghiệp tại nước khác (Do đạt kỳ thi sát hạch, được cấp chứng chỉ hành nghề và gia nhập Hội viên để hành nghề ở một nước khác).
Người có chứng chỉ hành nghề bắt buộc phải là Hội viên của Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán ở nước mà người đó muốn hành nghề. Ở các nước người có chứng chỉ hành nghề được lựa chọn hành nghề dưới 2 hình thức: Hành nghề cá nhân hoặc hành nghề trong một doanh nghiệp kế toán, kiểm toán.
Theo thông lệ chung của các nước, Hội viên của Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán có 2 loại: Cá nhân là người có chứng chỉ hành nghề kế toán, kiểm toán và thể nhân là doanh nghiệp kế toán, kiểm toán. Trong đó hội viên có chứng chỉ hành nghề có 2 loại: Người thực tế hành nghề kế toán, kiểm toán và người không hành nghề như người làm việc trong các doanh nghiệp, tổ chức, giáo viên các trường đại học….Hội viên của Hội nghề nghiệp phải tuân thủ các nghĩa vụ Hội viên (SMO) theo các tiêu chuẩn do IFAC qui định như: Tuân thủ các chuẩn mực kế toán, kiểm toán và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, cập nhật kiến thức hàng năm, chịu sự quản lý và kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ các chuẩn mực nghề nghiệp…
Tất cả các qui định liên quan đến mục đích, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Hội nghề nghiệp và tiêu chuẩn, điều kiện của Hội viên được qui định trong văn bản qui phạm pháp luật của các nước dưới các hình thức khác, có nước có Luật riêng về Hội nghề nghiệp tự quản về kế toán, kiểm toán, có nước có các chương riêng về Hội nghề nghiệp qui định trong Luật hoặc Nghị định riêng về kiểm toán độc lập…
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, để có được sự thừa nhận về hành nghề kế toán, kiểm toán giữa các nước thì một trong các yêu cầu bắt buộc là Hội nghề nghiệp của nước đó phải là thành viên của IFAC và Hội viên của Hội nghề nghiệp phải tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ Hội viên (SMO) theo các tiêu chuẩn do Liên đoàn Kế toán quốc tế (IFAC) qui định.
2/ Hoạt động nghề nghiệp kế toán, kiểm toán ở Việt Nam
(1). Cơ sở pháp lý cho hoạt động hành nghề kiểm toán ở Việt Nam:
(1.1) Phạm vi cung cấp dịch vụ của kiểm toán viên hành nghề:
Cơ sở pháp lý cho hoạt động hành nghề kiểm toán ở Việt Nam được pháp luật qui định tại Nghị định 07/CP năm 1994 và Nghị định 105/2004/NĐ-CP năm 2004. Người dự thi đạt yêu cầu, được cấp Chứng chỉ kiểm toán viên (KTV) (với kỳ thi gồm 8 môn) là tương đương với chứng chỉ Kế toán viên Công chứng (CPA) của các nước trong khu vực và quốc tế. Người có Chứng chỉ KTV nếu đủ điều kiện theo qui định là KTV hành nghề ở Việt Nam sẽ được cung cấp đồng thời cả dịch vụ kế toán, dịch vụ kiểm toán và một số dịch vụ khác như Kế toán viên Công chứng của các nước.
(1.2) Hình thức hành nghề: Chỉ được hành nghề dưới hình thức doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) mà không được hành nghề cá nhân.
(2). Quản lý Nhà nước về kiểm toán và Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam
- Từ trước năm 2005, Bộ Tài chính là cơ quan quản lý nhà nước, trực tiếp thực hiện và quản lý trực tiếp mọi hoạt động liên quan đến kiểm toán, bao gồm: Trình và ban hành văn bản qui phạm pháp luật về kiểm toán; Tổ chức thi và cấp chứng chỉ hành nghề; Đăng ký và quản lý hành nghề; Tổ chức cập nhật kiến thức cho người hành nghề; Kiểm soát chất lượng hoạt động và xử lý các sai phạm của doanh nghiệp kiểm toán (DNKT) và người hành nghề kiểm toán.
- Từ năm 1991 ở Việt Nam đã thành lập 2 công ty kế toán, kiểm toán đầu tiên. Qua 17 năm hoạt động đến nay cả nước đã có trên 1500 người được cấp chứng chỉ KTV, trong đó: Có trên 150 DNKT, trong đó có 145 DNKT đủ điều kiện hành nghề, gồm: 04 công ty 100% VĐT nước ngoài, 130 công ty TNHH, 11 công ty hợp danh, trong đó có 17 công ty là thành viên của các công ty quốc tế.
- Năm 2005 Việt Nam đã thành lập Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA). Với mục tiêu hội nhập với các tổ chức Hội nghề nghiệp trong khu vực và thế giới, Hội viên VACPA phải là người có chứng chỉ KTV, đáp ứng các yêu cầu về cập nhật kiến thức, về kiểm soát chất lượng, về năng lực hành nghề, trách nhiệm pháp lý trong các báo cáo kiểm toán và dịch vụ có bảo đảm và yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp tương đương với yêu cầu hội viên là các kế toán viên công chứng của các nước trong khu vực và thế giới.
3/ Nội dung công việc Bộ Tài chính đã chuyển giao cho VACPA
Đến năm 2006, Việt Nam đã cam kết mở cửa gần như hoàn toàn dịch vụ kế toán, kiểm toán. Xét đến sự cần thiết của công cuộc đổi mới, mở cửa và hội nhập quốc tế; xét điều kiện thực tế của các Hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán đã có ở Việt Nam, ngày 14/07/2005 tại Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC, Bộ Tài chính đã quyết định chuyển giao một số công việc liên quan đến quản lý nhà nước về kiểm toán cho VACPA theo lộ trình chuyển giao phù hợp. Nội dung công việc chuyển giao chủ yếu gồm: (1). Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ nghề nghiệp kiểm toán cho KTV hành nghề. Thực hiện cập nhật kiến thức cho KTV hành nghề; (2). Quản lý thống nhất danh sách KTV hành nghề, danh sách DNKT; (3). Xem xét điều kiện và công khai danh sách KTV hành nghề, danh sách DNKT đủ điều kiện hành nghề; (4). Thực hiện kiểm tra tuân thủ pháp luật về kiểm toán,chất lượng dịch vụ trong các DNKT. Hàng năm thực hiện tổng kết, đánh giá chất lượng dịch vụ và hoạt động nghề nghiệp của KTV hành nghề, hoạt động kiểm toán và báo cáo với Bộ Tài chính; (5). Các việc cụ thể khác như: Cử đại diện của các Hội tham gia thành viên Hội đồng thi và tổ thường trực Hội đồng thi KTV và kế toán viên hành nghề cấp Nhà nước, tham gia tổ chức thi KTV và kế toán viên hành nghề.
Ngoài các công việc trên, hiện nay Bộ Tài chính còn uỷ quyền cho VACPA thực hiện việc nghiên cứu, soạn thảo, cập nhật Hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (theo Quyết định số 1053/QĐ-BTC ngày 13/5/2008).
Để có cơ sở pháp lý cho VACPA tổ chức triển khai các công việc được giao, Bộ Tài chính đã ban hành các văn bản có liên quan bao gồm: Thông tư số 64/2004/TT-BTC ngày 29/6/2004 và Thông tư số 60/2006/TT-BTC ngày 28/6/2006 Hướng dẫn tiêu chuẩn, điều kiện thành lập và hoạt động đối với doanh nghiệp kiểm toán; Quyết định số 32/2007/QĐ-BTC ngày 15/5/2007 về Quy chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kế toán, kiểm toán; Quyết định số 94/2007/QĐ-BTC ngày 16/11/2007 về Quy chế thi và cấp Chứng chỉ KTV và Chứng chỉ hành nghề kế toán.
4/ Điều kiện chuyển giao
Có 04 điều kiện sau khi chuyển giao: (1) VACPA phải bổ xung Điều lệ, chấn chỉnh tổ chức bộ máy, đảm bảo đủ điều kiện hoạt động của một tổ chức nghề nghiệp tự quản và độc lập. (2) Cán bộ của Hội phải có chứng chỉ hành nghề, có kinh nghiệm thực tế. (3) Bộ Tài chính hỗ trợ một phần kinh phí, phương tiện làm việc. (4) Bộ Tài chính thực hiện kiểm tra, giám sát hoạt động của VACPA.
5/ Kết quả thực hiện các trách nhiệm do Bộ Tài chính chuyển giao cho VACPA theo Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC ngày 14/07/2005
(5.1) Việc chuyển giao công việc quản lý nhà nước thuộc trách nhiệm của Bộ Tài chính cho VACPA là kịp thời và theo lộ trình phù hơp, với các lý do sau:
(1) Hoạt động kiểm toán đòi hỏi sự độc lập, trung thực, minh bạch, chịu sự kiểm soát của cả xã hội. Do đó, cần có sự tham gia của các tổ chức nghề nghiệp chuyên nghiệp nhằm giảm nhẹ thủ tục hành chính, sự can thiệp của cơ quan nhà nước vào doanh nghiệp. Các công việc Bộ Tài chính đã chuyển giao cho VACPA thực hiện từ năm 2005 và thực tế qua đánh giá đã chứng minh việc chuyển giao cho Tổ chức nghề nghiệp những công việc này là hợp lý. Việc chuyển giao là phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội, đúng với chủ trương đổi mới mở cửa, hội nhập của Đảng và Nhà nước; Nghị quyết Đại hội Đảng IX nêu rõ: “cần mở rộng hơn các hình thức tập hợp nhân dân, tham gia các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp…” và “hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức hoạt động không vì mục đích lợi nhuận mà vì nhu cầu, lợi ích của nhân dân. Những tổ chức này được Nhà nước uỷ quyền thực hiện một số nhiệm vụ, cung cấp một số dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng. Thông qua đó, nhà nước có thể tập trung sức lực để thực hiện những nhiệm vụ quan trọng”.
(2) Công việc quản lý, cập nhật kiến thức và kiểm soát người hành nghề kiểm toán có khối lượng ngày càng lớn, càng phức tạp hơn, đòi hỏi cao, sát thực tế hơn, phù hợp với thông lệ quốc tế… trong khi cơ quan nhà nước không thể tăng biên chế bộ máy hành chính, năng lực thực hiện cũng bị hạn chế do cán bộ nhà nước không có chứng chỉ hành nghề và thực tế không hành nghề nên không nhất thiết cứ phải làm các công việc như đã chuyển giao, nếu không sẽ làm hạn chế sự phát triển nghề nghiệp này.
(3) Các công việc Bộ Tài chính chuyển giao cho VACPA là phù hợp với thông lệ quốc tế và là cơ sở pháp lý để Việt Nam triển khai đàm phán để thực hiện Hiệp định khung về thừa nhận lẫn nhau về hành nghề kế toán, kiểm toán giữa các nước thuộc khối ASEAN đã được ký kết vào tháng 8/2008.
(4) VACPA đã có sự phát triển khá về quy mô, lực lượng, có cơ sở vật chất và quy chế hoạt động… nên có thể đảm nhận tốt công việc được chuyển giao.
(5.2) Công việc chuyển giao trong 3 năm qua đã đạt hiệu quả tốt:
Về cơ bản VACPA đã và đang triển khai thực hiện tốt, có hiệu quả các công việc do Bộ Tài chính chuyển giao.Trong 3 năm qua, để thực hiện được các công việc Bộ Tài chính chuyển giao, VACPA đã hình thành được tổ chức bộ máy với các qui chế hoạt động theo mô hình của tổ chức nghề nghiệp quốc tế. Bước đầu VACPA đã góp phần nâng cao chất lượng và uy tín KTV hành nghề thông qua hoạt động đào tạo, cập nhật kiến thức, tư vấn chuyên môn, kiểm soát chất lượng, quản lý hành nghề và quan hệ quốc tế. Xã hội đã biết đến VACPA và tổ chức quốc tế bước đầu đã quan tâm đến hoạt động của VACPA.
Thứ hai: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, ban hành Luật Kiểm toán độc lập nhằm góp phần hoàn thiện cơ chế kiểm soát chất lượng dịch vụ kiểm toán
Kiểm toán là một loại hình dịch vụ phổ biến và quan trọng ở mọi quốc gia.Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế tất yếu sẽ dẫn đến sự hình thành thị trường thống nhất về dịch vụ kiểm toán, trước hết là quốc gia, tiếp theo là khu vực, sau đó là toàn cầu. Trong bối cảnh đó, việc đẩy nhanh sự phát triển, nâng cao trình độ nghề nghiệp và đảm bảo chất lượng dịch vụ kiểm toán tiếp cận và ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế giới là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với mọi quốc gia đang phát triển, trong sự nghiệp quan trọng đó, vai trò của Hội nghề nghiệp là rất lớn và cần được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Từ thực tiễn tình hình hoạt động nghề nghiệp kế toán, kiểm toán trên thế giới và từ việc tổng kết, đánh giá kết quả đạt được trong việc thực hiện các trách nhiệm do Bộ Tài chính chuyển giao cho VACPA qua các năm, có thể rút ra kinh nghiệm của quốc tế và của các nước có thể vận dụng cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam như sau:
1. Để hội nhập với quốc tế và các nước trong khu vực, trong tương lai gần, ngoài Bộ Tài chính là cơ quan quản lý nhà nước về kiểm toán, các nội dung liên quan đến Hội nghề nghiệp về kiểm toán trong hoạt động kiểm toán độc lập cần phải được luật hoá để giảm bớt các công việc mà cơ quan nhà nước không cần thiết và không có khả năng tiếp tục quản lý hoạt động kiểm toán độc lập. Việc luật hoá các quy định liên quan đến trách nhiệm và quyền hạn của Hội nghề nghiệp về kiểm toán làm cơ sở pháp lý để chuyển giao dần các chức năng quản lý nhà nước về hoạt động kiểm toán cho Hội nghề nghiệp đồng thời cũng là việc thực hiện các cam kết của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.
2. Các nội dung sau cần được nghiên cứu, xem xét để qui định trong Luật Kiểm toán độc lập:
2.1 . Trong Chương 1 Qui định chung cần qui định rõ 2 nội dung sau:
- Nguyên tắc quản lý hoạt động kiểm toán độc lập: Quản lý hoạt động kiểm toán độc lập được thực hiện theo nguyên tắc kết hợp quản lý Nhà nước với phát huy vai trò tự quản của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán, bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của KTV hành nghề và DNKT.
- Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán được thành lập để đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của KTV hành nghề và người có chứng chỉ KTV; bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán; giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và chất lượng hoạt động của KTV hành nghề và DNKT; thực hiện quản lý hành nghề kiểm toán theo quy định.
2.2. Cần có một chương riêng về quản lý hoạt động hành nghề kiểm toán trong đó qui định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước đồng thời qui định trách nhiệm tự quản của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán như sau:
- Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán thực hiện tự quản kiểm toán viên hành nghề và hoạt động hành nghề kiểm toán theo quy định của Luật Kiểm toán độc lập và Điều lệ của mình.
- Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý KTV hành nghề và hoạt động hành nghề kiểm toán theo quy định của pháp luật và uỷ quyền của Bộ Tài chính.
2.3. Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán là một đối tượng áp dụng Luật Kiểm toán độc lập, do vậy cần có một chương riêng về Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán, trong đó cần qui định các nội dung sau:
(1) Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán là tổ chức xã hội, nghề nghiệp của KTV hành nghề và người có chứng chỉ KTV trong phạm vi cả nước, đại diện cho KTV hành nghề và người có chứng chỉKTV, có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản, hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải bằng nguồn thu từ phí hội viên, các khoản đóng góp của hội viên và nguồn thu hợp pháp khác.
Hội viên của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán là các KTV hành nghề và những người có Chứng chỉ KTV.
Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán có Điều lệ, trong đó quyền, nghĩa vụ của Hội viên do Điều lệ của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán quy định.
(2) Nhiệm vụ, quyền hạn của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán
- Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của KTV hành nghề và người có chứng chỉ KTV trong phạm vi cả nước.
- Ban hành, hướng dẫn thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, chuẩn mực kiểm toán và các hướng dẫn thực hiện các phương pháp chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán. Giám sát việc tuân thủ các chuẩn mực này trong quá trình hoạt động của KTV hành nghề.
- Tổ chức kiểm tra tuân thủ pháp luật về kiểm toán độc lập, chuẩn mực kiểm toán và các quy định liên quan trong các DNKT.
- Tổ chức đăng ký và quản lý hành nghề cho KTV và công khai danh sách KTV và danh sách DNKT đủ điều kiện hành nghề theo quy định của pháp luật; Quản lý thống nhất danh sách KTV hành nghề và danh sách DNKT trong cả nước.
- Tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề cho KTV hành nghề.
- Tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề kiểm toán trong cả nước.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo theo thẩm quyền.
- Tham gia xây dựng văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm toán.
- Thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế liên quan đến Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán.
- Gửi Bộ Tài chính báo cáo tổng kết hàng năm về hoạt động hành nghề kiểm toán, các Nghị quyết, quyết định của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán theo quy định của pháp luật và khi có yêu cầu.
- Các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo Điều lệ của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán.
(3) Các cơ quan của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán
(a). Các cơ quan của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán gồm có:
- Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu KTV hành nghề toàn quốc là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán;
- Ban Chấp hành Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán là cơ quan lãnh đạo của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán giữa hai kỳ Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu KTV hành nghề toàn quốc;
- Ban thường trực Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán là cơ quan điều hành công việc của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán giữa hai kỳ họp của Ban Chấp hành;
- Ban kiểm tra; Ban đào tạo; Ban tư vấn; Ban khen thưởng, kỷ luật và các cơ quan chuyên môn khác do Điều lệ của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán quy định.
(b). Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán do Điều lệ của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán quy định.
(4) Điều lệ của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán
Điều lệ của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán do Đại hội toàn thể hoặc Đại hội đại biểu KTV hành nghề toàn quốc thông qua và gồm những nội dung chính sau đây:
- Tôn chỉ, mục đích và biểu tượng của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán;
- Tiêu chuẩn điều kiện, quyền, nghĩa vụ của hội viên; Thủ tục gia nhập, rút tên khỏi danh sách KTV hành nghề của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán;
- Nhiệm kỳ, cơ cấu tổ chức, thể thức bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán;
- Cơ cấu, số lượng đại biểu, nhiệm vụ, quyền hạn của Đại hội đại biểu KTV hành nghề toàn quốc; thủ tục và trình tự tiến hành Đại hội;
- Phí gia nhập Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán và phí hội viên;
- Thể thức sửa đổi, bổ sung Điều lệ.
- Tài chính của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán;
- Khen thưởng, thủ tục xem xét kỷ luật và kỷ luật KTV hành nghề; thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán;
- Quan hệ với cơ quan, tổ chức và các điều khoản khác.
2.4. Trong chương qui định xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động hành nghề kiểm toán, cần giao cho Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán có quyền xử lý kỷ luật KTV hành nghề cụ thể như sau:
- KTV hành nghề vi phạm quy định của Luật Kiểm toán độc lập, Chuẩn mực kiểm toán, Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán, Điều lệ và quy định khác của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm phải chịu một trong các hình thức kỷ luật: Khiển trách, cảnh cáo, tạm đình chỉ hành nghề kiểm toán từ sáu tháng đến hai mươi bốn tháng, cấm hành nghề kiểm toán.
- Việc xem xét quyết định kỷ luật KTV hành nghề thuộc thẩm quyền của Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán.
- Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán phải thông báo công khai quyết định kỷ luật đối với KTV hành nghề.
- Tổ chức nghề nghiệp về kiểm toán quy định về thủ tục xem xét, xử lý và các vấn đề liên đến xử lý kỷ luật đối với KTV hành nghề.
ThS. Trần Khánh Lâm -Tổng giám đốc Công ty TNHH Kiểm toán và tư vấn Chuẩn việt