Thứ ba, 16/9/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ ba, 16/9/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

QUY CHẾ THÍ ĐIỂM ĐẦU TƯ THEO HÌNH THỨC ĐỐI TÁC CÔNG - TƯ (PPP)

Ngày 09/11/2010, Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công-tư.

 

Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP)

 

Ngày 09/11/2010, Thủ tướng Chính Phủ đã ký Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công-tư. Đầu tư theo hình thức đối tác công-tư (Public Private Partnerships-PPP) là việc nhà nước và nhà đầu tư cùng thực hiện dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung cấp dịch vụ công trên cơ sở hợp đồng dự án. Đây là hình thức mà các quốc gia trên thế giới đang áp dụng rộng rãi để thu hút nguồn lực tài chính, quản lý và công nghệ từ khu vực tư nhân trong phát triển cở sở hạ tầng. Việt Nam sẽ thí điểm mô hình này trong thời gian từ 3-5 năm kể từ 15/01/2011.

 Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 01 năm 2011.

 Chỉnh sửa một số quy định về quản lý thuế

 Ngày 28/10/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định 106/2010/NĐ-CP (“Nghị định 106”) sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế (“Nghị định 85”) và Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân (“Nghị định 100”). Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011.

 

Nghị định 106 sửa đổi, bổ sung 25 quy định trong Nghị định 85. Trong đó, đáng chú ý có các quy định sau:

 

§  Quy định khai thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu bao gồm cả việc khai thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (quy định trước đây không gắn việc khai thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt vào hồ sơ hải quan).

 

§  Hình thức khai thuế khấu trừ và nộp thay cho các hãng vận tải nước ngoài trước đây không được quy định, theo Nghị định 106 các tổ chức làm đại lý vận tải hoặc đại lý giao nhận hàng hóa vận chuyển cho các hãng vận tải nước ngoài có trách nhiệm khấu trừ, khai và nộp thuế thay cho các hãng vận tải nước ngoài.

 

§  Mở rộng các trường hợp bị ấn định thuế: trường hợp doanh nghiệp không đăng ký thuế, hoặc nộp Báo cáo thuế trễ hơn 10 ngày so với quy định, hoặc không xuất trình được tài liệu kế toán, hóa đơn... đều bị ấn định thuế.

 

§  Tổ chức khi khấu trừ thuế thu nhập cá nhân được tự in chứng từ khấu trừ để cấp cho cá nhân đó. Tuy nhiên, để được tự in chứng từ này tổ chức đó phải có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về tự in chứng từ khấu trừ thuế.

 

§  Bổ sung đối tượng khai thuế thu nhập cá nhân theo tháng đối với thu nhập từ kinh doanh của cá nhân không cư trú. Ngoài ra cá nhân, nhóm cá nhân kinh doanh có thu nhập từ kinh doanh thực hiện nộp thuế theo phương thức kê khai; tổ chức, cá nhân chi trả thu nhập hàng tháng có tổng số thuế thu nhập cá nhân đã khấu trừ theo từng loại tờ khai thuế thấp hơn 5 triệu đồng có thể khai thuế theo quý.

 

Điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)

 

Ngày 29/10/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định 107/2010/NĐ-CP điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu vùng đối với lao động Việt Nam làm việc cho doanh nghiệp FDI, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế và các nhân người nước ngoài tại Việt Nam.  Theo đó, lương tối thiểu áp dụng cho các Vùng I (các quận thuộc Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) từ mức 1.100.000 đồng/tháng đến 1.550.000 đồng/tháng.  Mức lương tối thiểu vùng II, III và IV cũng được điều chỉnh tương ứng. Ngoài từ ngày 1/7/2011 một số địa phương được điều chỉnh áp dụng mức lương tối thiểu vùng.

 

Nghị định 107 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011

 

Quy định mới về chuyển lợi nhuận ra nước ngoài

 

Ngày 18/11/2010, Bộ Tài Chính ban hành Thông tư 186/2010/TT-BTC (“Thông tư 186”) hướng dẫn thực hiện việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước ngoài có lợi nhuận từ việc đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo quy định của Luật đầu tư.

 

Thông tư 186 có hiệu lực từ ngày 1/1/2011 (sau 45 ngày kể từ ngày ký), và thay thế Thông tư hiện hành số 124/2004/TT-BTC (“Thông tư 124”) ngày 23/12/2004. So với Thông tư 124, Thông tư 186 mới ban hành có một số thay đổi quan trọng.

 

Theo Thông tư 186, lợi nhuận nhà đầu tư nước ngoài chuyển từ Việt Nam ra nước ngoài là lợi nhuận hợp pháp được chia hoặc thu được từ các hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam theo Luật Đầu tư, sau khi thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam theo quy định.

 

Lợi nhuận chuyển ra nước ngoài có thể bằng tiền hoặc hiện vật theo hai trường hợp sau:

 

-       Chuyển lợi nhuận ra nước ngoài hàng năm khi kết thúc năm tài chính; và

-       Chuyển lợi nhuận ra nước ngoài khi kết thúc hoạt động đầu tư trực tiếp tại Việt Nam.

 

Trường hợp Báo cáo tài chính của năm phát sinh lợi nhuận vẫn còn số lỗ lũy kế được chuyển từ các năm trước sang chưa bù trừ hết theo quy định về thuế thu nhập doanh nghiệp thì Nhà đầu tư không được chuyển phần lợi nhuận phát sinh của năm đó.

 

Về thời điểm chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, Nhà đầu tư chỉ được chuyển lợi nhuận ra nước ngoài sau khi Báo cáo tài chính đã được kiểm toán và Tờ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp được nộp cho cơ quan quản lý thuế trực tiếp đồng thời thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam theo quy định của pháp luật.

 

Nhà đầu tư nước ngoài chỉ cần nộp Thông báo việc chuyển lợi nhuận ra nước ngoài theo mẫu ban hành kèm Thông tư 186 tới cơ quan thuế trực tiếp quản lý doanh nghiệp mà Nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư, trước khi thực hiện chuyển lợi nhuận ra nước ngoài ít nhất là 07 ngày làm việc.

 

Đơn giản hóa thủ tục đăng ký thuế TNCN

 

Ngày 5/11/2010, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 175/2010/TT-BTC sửa đổi, bổ sung thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/09/2008 hướng dẫn thi hành một số điều của luật thuế TNCN và hướng dẫn thi hành nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 8/09/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của luật thuế TNCN. So với thông tư 84, thông tư 175 có một số thay đổi quan trọng, cụ thể như sau:

 

Các loại giấy tờ trong hồ sơ đăng ký thuế TNCN

 

Cá nhân có thu nhập từ tiền lương, tiền công, thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn (bao gồm cả chuyển nhượng chứng khoán)... khi đăng ký thuế chỉ cần nộp 1 bộ hồ sơ, gồm: tờ khai đăng ký thuế (theo mẫu số 01/ĐK-TNCN đính kèm Thông tư này), chứng minh thư nhân dân hoặc hộ chiếu (bản sao, không cần công chứng).

 

Thời hạn giải quyết hồ sơ đăng ký thuế

 

Nếu hồ sơ nộp trực tiếp tại Cục thuế, mã số thuế cá nhân sẽ được cấp sau 3 ngày làm việc và sau 2 ngày làm việc đối với hồ sơ đăng ký thuế qua hệ thống bưu điện. Nếu hồ sơ nộp trực tiếp tại chi cục thuế, mã số thuế cá nhân sẽ được cấp sau 5 ngày làm việc và sau 3 ngày làm việc đối với hồ sơ đăng ký thuế qua hệ thống bưu điện.

 

Thông tư này sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 20/12/2010.

 

Thông tư mới hướng dẫn về Bảo hiểm thất nghiệp

 

Ngày 25/10/2010, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư 32/2010/TT-BLĐTBXH (“Thông tư 32”) hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ-CP (“Nghị định 127”) ngày 12/12/2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về Bảo hiểm thất nghiệp (“BHTN”). Thông tư 32 có hiệu lực từ ngày 9/12/2010 và thay thế Thông tư số 04/2009/TT-BLĐTBXH và Thông tư số 34/2009/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 127. Thông tư 32 có hiệu lực thi hành sau 45 ngày kể từ ngày ký.

 

ATIGA - Hiệp định mới về tự do thương mại trong khối ASEAN

 

Ngày 17/05/2010, các quốc gia ASEAN đã thống nhất ban hành Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN – Hiệp định ATIGA. Hiệp định ATIGA là Hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội bộ khối và được xây dựng trên cơ sở tổng hợp các cam kết đã được thống nhất trước đó.

 

Theo Hiệp định ATIGA, các nước trong khối Asean sẽ xoá bỏ thuế quan đối với phần lớn các mặt hàng, trừ nông sản chưa chế biến đưa về 0 - 5%. Nhóm 4 nước Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam đưa thuế suất về 0 - 5% đối với các mặt hàng thuộc danh mục cắt giảm từ 01/01/2009 và sẽ đưa về 0% từ 01/01/2015. Đặc biệt, đối với Việt Nam, thuế suất nhập khẩu đối với nông sản chưa chế biến sẽ giảm xuống 0-5% vào năm 2013.  

 

Hiệp định quy định rõ số dòng thuế được lùi thời hạn xoá bỏ thuế quan đến năm 2018 với nhóm 4 nước Campuchia, Lào, Mianma, Việt Nam. Ngoài mục tiêu xóa bỏ hàng rào thuế quan, ATIGA hướng nỗ lực chung của ASEAN để xử lý tối đa các hàng rào phi thuế quan, hợp tác hải quan và vệ sinh, kiểm dịch..., đồng thời xác lập mục tiêu hài hòa chính sách giữa các thành viên ASEAN trong bối cảnh xây dựng AEC.

 

 

 

 

VĂN BẢN HƯỚNG DẪN

 

Thuế Thu nhập doanh nghiệp

 

Thuế TNDN đối với hàng khuyến mại

 

Theo Công văn 3772/TCT-DNL ngày 28/9/2010 của Tổng cục Thuế, trường hợp không có sự chênh lệch về giá trị hàng khuyến mại mà doanh nghiệp nhận từ bên bán để khuyến mại cho khách hàng thì đây được xem là hoạt động thu hộ, chi hộ. Các khoản thu chi trong trường hợp này không được coi là thu nhập khác và chi phí khuyến mại của doanh nghiệp.

 

Trường hợp doanh nghiệp không thực hiện khuyến mại, hoặc thực hiện không đúng theo quy định của Luật thương mại, hoặc có khuyến mại nhưng không ghi trên hóa đơn thì phải tính giá trị hàng khuyến mại vào thu nhập khác để tính thuế TNDN.

 

Thuế Thu nhập cá nhân

 

Hướng dẫn xác định tình trạng cư trú của người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài

 

Ngày 21/10/2010, Tổng Cục thuế đã ban hành Công văn số 4229/TCT-TNCN về việc xác định tình trạng cư trú của người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài. Theo công văn này, nhân viên Việt Nam ký lao động với Công ty nước ngoài, làm việc ở nước ngoài (chỉ ở Việt Nam dưới 183 ngày) những vẫn duy trì nơi ở đăng ký thường trú tại Việt  Nam thuộc đối tượng cá nhân cư trú tại Việt Nam. Khi đó, nếu các cá nhân này đồng thời là đối tượng cư trú của cả Việt Nam và nước ký hiệp định với Việt Nam thì sẽ áp dụng Hiệp định thuế để xác định nơi cư trú duy nhất của cá nhân đó. Việc xác định nơi cư trú duy nhất theo Hiệp định thuế được dựa vào thứ tự ưu tiên của các tiêu thức như nhà ở thường trú, quan hệ kinh tế, quan hệ cá nhân, thời gian có mặt tại mỗi nước, quốc tịch.

 

Cổ phiếu thưởng: chỉ tính thuế TNCN khi bán lại

 

Theo hướng dẫn tại Công văn số 4418/TCT-TNCN ngày 02/11/2010 của Tổng Cục thuế về thuế TNCN đối với khoản thưởng bằng cổ phiếu, khi nhận cổ phiếu thưởng, cá nhân tạm thời chưa kê khai nộp thuế TNCN. Tuy nhiên, sau khi nhận cổ phiếu thưởng, nếu cá nhân có chuyển nhượng cổ phiếu cùng loại với cổ phiếu thưởng, cá nhân phải nộp thuế TNCN đối với thu nhập từ tiền lương, tiền công có được từ việc nhận cổ phiếu thưởng, tuy nhiên việc kê khai, nộp thuế sẽ được thực hiện vào cuối năm (cá nhân tổng hợp chung vào thu nhập từ tiền lương, tiền công của cả năm và thực hiện quyết toán thuế để xác định chính xác số thuế TNCN phải nộp trong năm).Ngoài ra khi chuyển nhượng cổ phiếu thưởng, cá nhân còn phải nộp thuế TNCN đối với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán.

 

Nếu cá nhân quyết toán qua đơn vị chi trả, thì đơn vị này có trách nhiệm thực hiện quyết toán cho cá nhân theo giá trị thưởng được xác định theo mức thưởng ghi trên sổ sách kế toán của đơn vị. Nếu cá nhân không quyết toán qua đơn vị chi trả thì đơn vị này có trách nhiệm xác nhận giá trị thưởng theo mức thưởng ghi trên sổ sách kế toán làm căn cứ quyết toán thuế TNCN.

 

Người trúng thưởng trong các trò chơi không bắt buộc phải đăng ký thuế

 

Theo quy định tại thông tư số 164/2009/TT-BTC ngày 13/08/2009, trường hợp cá nhân trúng thưởng tại các điểm vui chơi giải trí có thưởng do các tổ chức kinh doanh được phép kinh doanh theo quy định của pháp luật thì không phải thực hiện đăng ký thuế. Các đơn vị chi trả thưởng sẽ phải chịu trách nhiệm thực hiện khấu trừ, khai thuế, nộp thuế, quyết toán thuế TNCN thay cho cá nhân trúng thưởng theo quy định.

 

Trên đây là nội dung của Công văn số 3591/TCT-TNCN ngày 25/09/2010 của Tổng Cục thuế.

 

Hướng dẫn về xác nhận chuyên gia nước ngoài thực hiện chương trình, dự án ODA

 

Theo công văn số 3643/TCT-TNCN ngày 20/9/2010 của Tổng Cục thuế thì các chuyên gia nước ngoài thực hiện các chương trình, dự án ODA thuộc diện để xem xét miễn thuế TNCN nếu đảm bảo các điều kiện sau:

 

§  Chuyên gia là người không có quốc tịch Việt Nam; và

 

§  Chuyên gia là người được cử vào Việt Nam để thực hiện các nhiệm vụ tư vấn về chuyên môn kỹ thuật, nghiên cứu, xây dựng, thẩm định, theo dõi đánh giá, quản lý và thực hiện gói thầu xây dựng dự án ODA; và

 

§  Chuyên gia phải do Bên nước ngoài tuyển chọn ký hợp đồng, hoặc chuyên gia của nhà thầu thuộc danh sách tư vấn trong tài liệu đấu thầu của nhà thầu trên cơ sở kết quả đấu thầu được cấp có thẩm quyền của Bên nước ngoài phê duyệt và phía Việt Nam chấp nhận.

 

Về đối tượng áp dụng, Quyết định 119/2009/QĐ-TTg và Thông tư 12/2010/TTLT-BKHĐT-BTC nêu rõ: chỉ những chuyên gia mà hợp đồng chuyên gia có hiệu lực từ 20/11/2009 mới thuộc đối tượng áp dụng Quyết định và Thông tư trên.

 

Hồ sơ xác nhận chuyên gia và thủ tục xác nhận chuyên gia được thực hiện theo hướng dẫn tại Điều 3 Thông tư liên tịch 12/2010/TTLT-BKHĐT-BTC.

 

Thuế Giá trị gia tăng

 

Hoàn thuế GTGT khâu nhập khẩu máy móc thiết bị

 

Theo quy định tại Thông tư 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008, cơ sở kinh doanh đang hoạt động thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư thì cơ sở kinh doanh phải kê khai bù trừ số thuế GTGT của hàng hóa dịch vụ mua vào sử dụng cho dự án đầu tư mới cùng với việc kê khai thuế GTGT của hoạt động sản xuất kinh doanh đang thực hiện. Sau khi bù trừ, nếu có số thuế GTGT của hàng hóa dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT cho dự án đầu tư.

 

Tuy nhiên nếu thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng được nhập khẩu nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố định thì được lựa chọn áp dụng gia hạn nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu và hoàn thuế GTGT theo điều kiện và hướng dẫn tại Thông tư 92/2010/TT-BTC.

 

Trên đây là hướng dẫn của Tổng Cục thuế tại Công văn 3493/TCT-DNL ban hành ngày 10/09/2010.

 

Kê khai thuế GTGT đối với dịch vụ cước kết nối của Công ty viễn thông

 

Căn cứ vào hướng dẫn xác định thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ cũng như tình hình kinh doanh thực tế của các công ty viễn thông, Tổng cục Thuế đã đưa ra hướng dẫn về việc kê khai thuế GTGT tại Công văn 3493/TCT-DNL ban hành ngày 10/09/2010.

 

Theo đó, hàng tháng sau khi hai bên tiến hành đối soát số liệu cước phát sinh của tháng trước, căn cứ dữ liệu về cước các cuộc gọi phát sinh giữa các mạng đo được trên tổng đài đã được đối soát, công ty thực hiện tạm xác định doanh thu, chi phí cước kết nối để kê khai thuế GTGT đầu ra và thuế GTGT đầu vào tương ứng. Sau khi đối soát và thống nhất dữ liệu, căn cứ vào hóa đơn GTGT xuất cho đối tác và hóa đơn GTGT nhận được của đối tác, Công ty thực hiện điều chỉnh số thuế GTGT đã tạm kê khai. 

 

Thanh toán tiền hàng Nhập khẩu qua tài khoản vãng lai mở tại Việt Nam

 

Ngày 21/9/2010, Tổng Cục thuế đã ban hành Công văn số 3671/TCT-KK hướng dẫn trường hợp thanh toán tiền hàng nhập khẩu qua tài khoản vãng lai mở tại Việt Nam của công ty nước ngoài.

 

Theo đó, chứng từ thanh toán qua tài khoản vãng lai của công ty nước ngoài được chấp nhận là “chứng từ thanh toán qua ngân hàng” cho mục đích khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo Thông tư 129/2008/TT-BTC nếu việc thanh toán này được quy định trong phụ lục hợp đồng và có ủy quyền của bên nước ngoài cho cá nhân là nhân viên của công ty làm chủ tài khoản tại Việt Nam.

 

Hàng xuất khẩu tại chỗ để tiếp tục sản xuất bán nội địa không được hưởng thuế suất thuế GTGT 0%

 

Theo Luật thuế GTGT hiện hành, hàng hóa xuất khẩu tại chỗ được coi như hàng hóa xuất khẩu và hưởng thuế suất thuế GTGT 0%. Tuy nhiên theo Công văn 3743/TCT-CS ngày 27/9/2010 của Tổng cục Thuế, trường hợp hàng xuất khẩu tại chỗ không tiếp tục thực hiện sản xuất, gia công hàng xuất khẩu mà để sản xuất, gia công hàng bán nội địa thì phải chịu thuế GTGT như hàng hóa nội địa.

 

Thuế GTGT đối với dịch vụ cung cấp cho nước ngoài

 

Để giải đáp thắc mắc về thuế GTGT đối với việc thực hiện dịch vụ sửa chữa cho phương tiện vận tải quốc tế cung cấp cho nước ngoài, Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 4401/TCT-CS ngày 11/10/2010.Theo đó, từ ngày 01/01/2004 đến 03/06/2007, trường hợp doanh nghiệp Việt Nam thực hiện dịch vụ sửa chữa phương tiện vận tải quốc tế cho nước ngoài để sử dụng trực tiếp cho hoạt động của phương tiện vận tải quốc tế thì dịch vụ sửa chữa này thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Trường hợp doanh nghiệp đã kê khai khác với hướng dẫn trên hoặc cơ quan thuế đã xử lý thì không được xem xét xử lý lại.

 

Hiện nay, theo quy định tại Thông tư 129/2008/TT-BTC về thuế GTGT, chỉ có dịch vụ sửa chữa tàu bay, tàu biển cung cấp cho tổ chức, cá nhân nước ngoài nếu thỏa mãn một số điều kiện về hồ sơ, chứng từ thì sẽ được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%.

 

Chứng từ ngân hàng cung cấp sau khi có quyết định xử lý của cơ quan thuế

 

Ngày 25/10/2010, Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn số 4272/TCT-CS hướng dẫn việc kê khai thuế GTGT đối với các hóa đơn trên 20.000.000 đồng. Theo đó, trường hợp doanh nghiệp không cung cấp được chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hóa đơn mua hàng hóa có giá trị từ 20.000.000 đồng trở lên khi cơ quan thuế có quyết định thanh tra, kiểm tra nhưng sau thời gian chấp hành quyết định xử lý của cơ quan thuế, doanh nghiệp cung cấp được chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì doanh nghiệp cũng không được kê khai khấu trừ điều chỉnh, bổ sung đối với các hóa đơn mua hàng đó.

 

Thuế GTGT đối với hàng hóa dịch vụ dùng để khuyến mại, quảng cáo

 

Trường hợp công ty sử dụng hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho khách hàng là khách mời và khách hàng nội bộ thì công ty phải xuất hóa đơn và tính thuế GTGT như với hàng hóa dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này.

 

Tuy nhiên, nếu hàng hóa, dịch vụ tài trợ để quảng cáo được chấp nhận là chi phí quảng cáo thì khi lập hoá đơn GTGT, trên hoá đơn ghi tên và số lượng hàng hoá, ghi rõ là hàng khuyến mại, quảng cáo, hàng mẫu không thu tiền; dòng thuế suất, thuế GTGT không ghi, gạch chéo như quy định tại thông tư 129/2008/TT-BTC quy định thi hành luật thuế GTGT.

 

Trên đây là hướng dẫn tại Công văn số 3327/TCT-CS ngày 30/8/2010 của Tổng cục Thuế.

 

Thuế Nhà thầu nước ngoài

 

Khoản chi phí giám sát quá trình thực hiện hợp đồng cho nhân sự của Chủ đầu tư do nhà thầu chi trả hộ

 

Khoản chi phí giám sát thực hiện hợp đồng cho nhân sự của Chủ đầu tư do nhà thầu ứng trước sau đó Chủ đầu tư hoàn lại chi phí cho nhà thầu sẽ phải được tính vào doanh thu chịu thuế TNDN, thuế GTGT của nhà thầu nếu đó là khoản thu của nhà thầu. Trường hợp, khoản chi phí đó là khoản chi hộ, thu hộ do nhà thầu ứng trước để thanh toán, sau đó Chủ đầu tư hoàn lại chi phí này trên cơ sở công văn đề nghị thanh toán, kèm theo bảng xác nhận nhân sự của Chủ đầu tư và các chứng từ khác có liên quan thì khoản chi này không tính vào doanh thu chịu thuế của nhà thầu.

 

Trên đây là hướng dẫn tại Công văn 4327/TCT-DNL ngày 27/10/2010 do Tổng Cục thuế ban hành.

 

Thuế nhà thầu với dịch vụ thuê đường truyền vệ tinh

 

Theo Công văn 3730/TCT-CS ngày 27/9/2010 của Tổng cục Thuế, dịch vụ thuê đường truyền vệ tinh của bên nước ngoài được miễn thuế nhà thầu nếu được thực hiện ở nước ngoài.

 

Mẫu tờ khai thuế TNDN dành cho nhà thầu nộp thuế theo phương pháp hỗn hợp (Hybrid method)

 

Luật Quản lý thuế hiện hành chưa quy định về mẫu tờ khai thuế TNDN dành cho nhà thầu nước ngoài nộp thuế theo phương pháp hỗn hợp (nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và nộp thuế TNDN theo phương pháp ấn định).

 

Theo đó, Tổng cục Thuế đã ban hành Công văn 13983/BTC-TCT ngày 18/10/2010 hướng dẫn mẫu tạm thời để khai thuế TNDN theo tháng dành cho nhà thầu nộp thuế theo phương pháp hỗn hợp trong thời gian chờ sửa đổi, bổ sung Thông tư 60/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính.

 

Ngoài ra Công văn này cũng hướng dẫn nhà thầu kê khai vào từng mẫu biểu đối với các hoạt động có mức tỷ lệ thuế TNDN tính trên doanh thu khác nhau.

 

Xuất nhập khẩu & Hải quan

 

Kê khai phí THC vào trị giá tính thuế hàng nhập khẩu

 

Căn cứ theo Công văn 6454/TCHQ-TXNK do Bộ Tài chính ban hành ngày 01/11/2010, doanh nghiệp phải kê khai phí xếp dỡ tại cảng (“THC”) có liên quan trực tiếp đến việc bốc, dỡ, xếp và chuyển hàng tại cảng đi, cảng đến, cảng trung chuyển khi tính trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.  Trường hợp phí THC đã bao gồm thuế GTGT phải nộp ở Việt Nam thì được khấu trừ khoản thuế này ra khỏi giá trị tính thuế hàng nhập khẩu.

 

Quy định về thanh khoản hàng sản xuất xuất khẩu

 

Tổng Cục hải quan ban hành Công văn 6342/TCHQ-TXNK ngày 25/102/010 hướng dẫn vướng mắc về thanh khoản hàng sản xuất xuất khẩu của doanh nghiệp.  Theo đó, những doanh nghiệp không đăng ký định mức sản phẩm xuất khẩu theo hướng dẫn tại Điều 33, Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/4/2009 của Bộ Tài chính thì không đủ điều kiện về hồ sơ thanh khoản, hoàn thuế cho số nguyên liệu, vật tư nhập khẩu đã đưa vào sản xuất xuất khẩu theo quy định tại Thông tư  trên.

 

Hướng dẫn về thuế đối với nguyên vật liệu dư thừa tiêu hủy sau khi thanh khoản hợp đồng gia công


Ngày 21/10/2010, Tổng cục Hải quan ban hành công văn số 6283/TCHQ-TXNK về thuế đối với nguyên vật liệu dư thừa tiêu hủy sau khi thanh khoản hợp đồng gia công. Theo đó nghĩa vụ thuế trong thời điểm hiệu lực của Nghị định 149/2005/NĐ-CP (“Nghị định 149”) và thời điểm hiệu lực của Nghị định 87/2010/NĐ-CP (“Nghị định 87”) sẽ khác nhau, cụ thể như sau:

 

§  Thời điểm hiệu lực của Nghị định 149: nguyên phụ liệu dư thừa, phế liệu, phế phẩm sau thanh khoản hợp đồng gia công, nếu nằm trong định mức đã đăng ký và được chấp nhận thì khi tiêu hủy không phải nộp thuế nhập khẩu, nếu nằm ngoài định mức đã đang ký thì khi tiêu hủy phải nộp thuế nhập khẩu.

 

§  Thời điểm hiệu lực của Nghị định 87: nguyên phụ liệu dư thừa, phế liệu, phế phẩm sau thanh khoản hợp đồng gia công khi tiêu hủy sẽ được miễn thuế.

 

Thuế môn bài

 

Thuế môn bài năm 2011

 

Ngày 23/9/2010, Tổng Cục thuế ban hành Công văn 3701/TCT-CS hướng dẫn Cục thuế các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về chính sách thu thuế môn bài năm 2011.  Theo đó, các hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh tiếp tục giữ nguyên bậc thuế môn bài năm 2010.  Trường hợp, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có biến động lớn về tình hình kinh doanh hoặc mới bắt đầu kinh doanh trong năm 2011 thì Cục thuế địa phương căn cứ vào quy định và tình hình thực tế để xác định bậc môn bài phù hợp cho năm 2011.

 

Quy định về hóa đơn

 

Hướng dẫn bổ sung về hóa đơn

 

Theo Thông tư 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010 của Bộ Tài chính về hóa đơn áp dụng từ ngày 1/1/2011, doanh nghiệp siêu nhỏ (từ 10 người trở xuống) có thể mua hóa đơn tại Cục thuế. Theo Công văn 15364/BTC-TCT ngày 12/11/2010 của Bộ Tài chính, cách tính số lao động của doanh nghiệp siêu nhỏ sẽ dựa trên công thức tính số lao động sử dụng thường xuyên quy định tại Thông tư 40/2009/TT-BLĐTBXH ngày 3/12/2009.

 

Ngoài ra, với doanh nghiệp đã tự in hoặc đặt in hóa đơn trong năm 2010 với số lượng lớn mà đến hết Quý I/2011 vẫn chưa sử dụng hết và có nhu cầu sử dụng tiếp thì có thể làm Thông báo phát hành hóa đơn gửi Cục thuế quản lý để tiếp tục sử dụng số hóa đơn còn lại.

 

Quy định cụ thể về thiết kế hóa đơn

 

Trong quá trình gấp rút thực hiện các quy định mới về hóa đơn, chứng từ tại Thông tư 153/2010/TT-BTC, Cục thuế TP Hồ Chí Minh đã ban hành Công văn số 7097/CT-TTHT ngày 3/11/2010 nhằm hướng dẫn người nộp thuế thuộc diện tự in, đặt in hóa đơn trong việc thiết kế giao diện của hóa đơn.

 

Công văn hướng dẫn cụ thể thiết kế, bố trí, nội dung của một số chi tiết bắt buộc trên hóa đơn như ký hiệu hóa đơn, số hóa đơn, liên hóa đơn, tên hàng hóa dịch vụ, thông tin về người bán, người mua. Thêm vào đó, công văn đã giải thích rõ hơn đối với hình thức hóa đơn tự in có lô-gô thì lô-gô, hình ảnh trang trí không bắt buộc phải nhỏ hơn cỡ chữ nhỏ nhất của các nội dung bắt buộc.

                                     Chuyên mục do Deloitte Việt Nam cung cấp 

Lượt xem: 2

ĐẦU MỐI TÍCH CỰC CHO HOẠT ĐỘNG THI ĐUA KHEN THƯỞNG

(khoahockiemtoan.vn) - “Thi đua là yêu nước, yêu nước là phải thi đua và những người thi đua là những người yêu nước nhất”. Bởi “thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”, những người làm công tác thi đua khen thưởng của Văn phòng Kiểm toán Nhà nước (KTNN) luôn nỗ lực hết mình để hoàn thành nhiệm vụ được lãnh đạo KTNN, Ban Cán sự Đảng tin tưởng giao phó.   Đầu mối tích cực cho các hoạt động thi đua khen thưởng Làm công tác thi đua nghe qua tưởng chừng là công việc đơn giản nhưng lại đòi hỏi sự cẩn thận, lòng say mê và sự kiên trì, nhẫn nại. Trong 20 năm qua, từ khi còn là phòng pháp chế - thi đua - tuyên truyền, rồi phòng thi đua tuyên truyền, phòng thi đua khen thưởng và bây giờ là Ban Thi đua Khen thưởng, đội ngũ công chức chuyên trách thực hiện công tác thi đua luôn phải gánh trọng trách lớn với khối lượng công việc không hề nhỏ. Với nòng cốt là Ban Thi đua Khen thưởng, Văn phòng KTNN có chức năng tham mưu, giúp việc cho lãnh đạo KTNN cũng như phối hợp với các đơn vị trong toàn ngành về các hoạt động liên quan. Ban Thi đua chỉ có 6 người nhưng lại trực tiếp thực hiện chuyên trách công tác thi đua cho Văn phòng KTNN đồng thời là đầu mối hướng dẫn, tiếp nhận, xử lý thông tin, hồ sơ và các vấn đề liên quan trong công tác thi đua của toàn ngành. Không hề quá khi nói rằng làm công tác thi đua là “làm dâu trăm họ”, nhiều thứ việc không tên, nhiều áp lực vô hình cùng với đặc thù riêng của công việc không phải ai cũng có thể sẻ chia. Công tác thi đua của những ngày bình thường có lẽ là công việc thầm lặng khi mỗi cán bộ làm công tác này hầu hết dành thời gian để nghiên cứu, xây dựng, ban hành hệ thống các văn bản về công tác thi đua - khen thưởng thường xuyên cũng như đột xuất của KTNN; xây dựng các văn bản hướng dẫn công tác thi đua hàng năm, các chương trình thi đua làm sao cho thiết thực, hiệu quả với mỗi cá nhân, tập thể hay như việc sắp xếp hồ sơ tài liệu thi đua hàng năm...  Những công việc thầm lặng đó, đã có lúc khiến nhiều người cho rằng “cán bộ làm công tác thi đua chỉ bận vào mỗi dịp cuối năm, thời gian còn lại chỉ túc tắc gọi là...”. Tuy nhiên, sự nhận xét đó có lẽ còn phiến diện, bởi những công việc hàng ngày đó được mỗi người cán bộ làm công tác thi đua cần mẫn thực hiện để đến cuối năm hay những lúc có những phong trào thi đua theo đợt, công tác thi đua luôn được hoàn thành một cách tốt nhất bởi đã có sự chuẩn bị kỹ càng. Còn vào những thời điểm cuối năm, hay những khi kết thúc các đợt thi đua là lúc mà mọi công việc dồn dập luôn buộc anh chị em phải dồn sức, căng mình để hoàn thành đúng tiến độ và chất lượng, có số liệu chính sác để giúp Hội đồng Thi đua Khen thưởng chọn lựa ra những cá nhân, tập thể xứng đáng nhất với các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng. Công việc nhìn từ ngoài tưởng chừng như đơn giản ấy, là những ngày bước ra khỏi phòng làm việc khi thành phố đã lên đèn, là những ngày miệt mài đọc, nghiên cứu hồ sơ, báo cáo thi đua, là những băn khoăn khi chỉ tiêu cho mỗi danh hiệu chỉ có hạn mà những đóng góp, thành tích của anh em lại rất nhiều. Bên cạnh công tác thi đua trong ngành, Ban Thi đua Khen thưởng còn là đầu mối thực hiện, tập hợp các báo cáo thành tích chung của toàn ngành cũng như các đơn vị trực thuộc để hoàn thiện hồ sơ đề nghị các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng cấp cao. Về thực hiện công tác thi đua khen thưởng của đơn vị mình cũng như những đóng góp cho hoạt động chung của KTNN, Chánh văn phòng KTNN cho biết: “Văn phòng KTNN với chức năng, nhiệm vụ được giao là đầu mối của phần lớn các hoạt động chung trong toàn ngành, trong đó có công tác thi đua – khen thưởng. Vì vậy, chúng tôi luôn xác định và quán triệt tới toàn thể công chức, người lao động trước hết là phải trách nhiệm, nhiệt tình, sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ được giao và hơn nữa trong từng vị trí, trong từng nhiệm vụ phải luôn  suy nghĩ, sâu sát và đem hết sức mình để giải quyết công việc có hiệu quả cao nhất nhằm hoàn thành nhiệm vụ phục vụ cho toàn ngành. Đấy chính là thi đua thiết thực nhất để góp phần vào phong trào thi đua chùng của toàn ngành. Bên cạnh công tác chuyên môn văn phòng KTNN cũng luôn tích cực tham gia các phong trào thi đua, các hoạt động đoàn thể như văn nghệ, thể thao. Trong đợt thi đua 365 ngày này, Công đoàn Văn phòng KTNN phối hợp với Đoàn Thanh niên văn phòng đã khích lệ tinh thần của công chức và người lao động trong đơn vị tranh thủ và tích cực tham gia luyện tập, tạo được không khí vui tươi, phấn khởi, đoàn kết trong toàn đơn vị, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn và phấn đấu để đạt được thành tích cao trong các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao do KTNN tổ chức chào mừng kỷ niệm 20 năm ngày thành lập ngành. Tuy nhiên, do đặc thù công việc phải thực hiện rất nhiều mảng khác nhau, đa dạng, ngoài nỗ lực phấn đấu của công chức và người lao động của Văn phòng KTNN còn phải có sự giúp đỡ, phối hợp tích cực của các đơn vị có liên quan trong toàn ngành nên cũng có những công việc kết quả đạt được khiến chúng tôi chưa hài lòng. Nhưng chúng tôi luôn xác định dù là nhiệm vụ nào, Văn phòng KTNN vẫn luôn sẵn sàng thực hiện và tìm mọi giải pháp để thực hiện tốt nhất và luôn đặt lợi ích chung của ngành lên trên hết”. Phát động thi đua ngay từ đơn vị làm thi đua Thi đua theo tư tưởng Hồ Chí Minh đơn giản là làm tốt những công việc hàng ngày: “Công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua, mọi việc đều thi đua. Thi đua là hoạt động tất yếu nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi con người. Người người phải thi đua, ngành ngành phải thi đua. Ai làm việc gì, nghề gì cũng thi đua làm cho nhanh, cho tốt, cho nhiều. Quân đội thi đua giết giặc lập công. Công nhân thi đua tăng gia sản xuất. Nông dân thi đua sản xuất lương thực. Trí thức thi đua sáng tác, phát minh. Cán bộ thi đua cần, kiệm, liêm, chính. Toàn dân thi đua tích cực tham gia kháng chiến.” Với toàn thể công chức, người lao động Văn phòng KTNN, thi đua cũng chính là làm tốt nhiệm vụ được giao. Bám sát chủ đề xuyên suốt của phong trào thi đua 365 ngày nhân kỉ niệm 20 năm thành lập ngành“Phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đạo đức nghề nghiệp, sáng tạo và trách nhiệm trong công tác, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của KTNN”, cùng với sự lãnh đạo, chỉ đạo của lãnh đạo Văn phòng và nỗ lực của người lao động, Văn phòng KTNN xứng đáng với những phần thưởng, những danh hiệu thi đua trong suốt 19 năm phát triển và trưởng thành. Trong đợt thi đua 365 ngày chào mừng kỷ niệm 20 năm thành lập KTNN, cũng như các đơn vị trong toàn ngành, hoạt động thi đua của Văn phòng KTNN được diễn ra sôi nổi, nhiệt tình trong các hoạt động chung cũng như công tác chuyên môn. Bám sát vào chức năng, nhiệm vụ, đặc điểm tình hình của đơn vị, lãnh đạo các Phòng, Ban, Đội phối hợp với tổ chức Đảng, Đoàn thể trong Văn phòng KTNN và của đơn vị mình đề ra các biện pháp thích hợp, cụ thể hóa 7 nội dung thi đua của Tổng Kiểm toán Nhà nước phát động tại Kế hoạch số 948/KH-KTNN ngày 10/7/2013 vào Chương trình hành động số 146/CTr-VP ngày 02/8/2013 của Chánh Văn phòng KTNN.  Đồng thời, Văn phòng cũng đã tổ chức phát động phong trào thi đua, phổ biến và quán triệt sâu rộng đến toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động về mục đích, yêu cầu, thời gian và nội dung phong trào thi đua để biết và thực hiện. Bên cạnh đó, lãnh đạo Văn phòng luôn bám sát nhiệm vụ của từng Phòng, Ban, Đội để kiểm tra, giám sát theo chức năng nhiệm vụ được phân công, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc cũng như thường xuyên động viên, khuyến khích tinh thần sáng tạo của cán bộ công chức trong quá trình thực thi nhiệm vụ; tập trung xây dựng tập thể phòng và cá nhân điển hình tiên tiến… tạo không khí hăng hái thi đua đạt thành tích xuất sắc về mọi mặt công tác. Nhờ đó, toàn thể các đơn vị thuộc KTNN đều nhiệt tình hưởng ứng, lập kế hoạch thi đua cụ thể và tổ chức phát động phong trào thi đua 365 ngày đến từng cá nhân trong từng đơn vị. Các phòng, ban, đội trong văn phòng đều xây dựng cho mình chương trình học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ, trau dồi kiến thức, phối hợp công tác, nâng cao tính chuyên nghiệp trong tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn. Các hoạt động văn thể cũng được lãnh đạo Văn phòng KTNN chú trọng, ngoài các hoạt động thường xuyên, trong đợt kỷ niệm 20 năm ngày thành lập KTNN, Văn phòng cũng tích cực đăng ký và tham gia các nội dung thể thao và hội diễn văn nghệ, qua đó tạo ra không khí đầy hứng khởi, tạo động lực để mỗi cán bộ, công chức và người lao động của Văn phòng KTNN thực hiện có chất lượng cao nhất những nhiệm vụ được giao. Đồng thời, tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-BCS ngày 16/4/2008 của Ban Cán sự Đảng “Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, kiểm toán viên nhà nư­ớc trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”. Nội dung phong trào thi đua và công tác khen thưởng tại từng đơn vị cấp phòng của Văn phòng KTNN đã gắn kết với thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc, phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư, phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và các đoàn thể chính trị vững mạnh. Riêng công tác thi đua của năm 2013 với Văn phòng KTNN, Ban Thi đua Khen thưởng cũng nặng nề hơn, vì bên cạnh nhiệm việc hoàn thành các thủ tục khen thưởng cho các tập thể, cá nhân toàn ngành trong năm công tác 2013. Văn phòng luôn chủ động đôn đốc, hướng dẫn các đơn vị tổ chức thi đua, tổng kết, đánh giá, chấm điểm và bình xét thi đua cho đợt thi đua 365 ngày để kịp thời tôn vinh những tập thể, cá nhân xuất sắc trong dịp lễ quan trọng này. Ban Thi đua cũng đã hoàn chỉnh hồ sơ, thủ tục đề nghị khen thưởng các danh hiệu thi đua và hình thức khen thưởng cấp cao cho các tập thể và cá nhân. Một niềm vui lớn hơn nữa là Chủ tịch nước ký quyết định tặng Huân chương Độc lập hạng nhì cho KTNN nhân dịp kỷ niệm 20 năm thành lập ngành. Đây là sự ghi nhận về những thành tích đặc biệt xuất sắc của ngành KTNN qua 20 năm trưởng thành và phát triển. Ngoài ra còn có các phần thưởng cao quý khác như: Huân chương Lao động hạng nhì cho tập thể Công đoàn KTNN; Huân chương Lao động hạng nhì cho 04 cá nhân; Huân chương Lao động hạng ba cho 04 cá nhân và 01 tập thể; Bằng khen cho 09 cá nhân, 05 tập thể cấp phòng 01 tập thể cấp Vụ; Cờ thi đua của Chính phủ cho 03 đơn vị. Trong phong trào thi đua 365 ngày với sự phấn đấu nỗ lực tập thể công chức và người lao động Văn phòng KTNN đã đạt được những thành tích đáng ghi nhận góp phần cùng với các đơn vị trong toàn ngành thực hiện tốt các tiêu trí đề ra trong phong trào thi đua, với những đóng góp của mình, Văn phòng KTNN nói chung, Ban Thi đua Khen thưởng nói riêng đã được lãnh đạo KTNN, các đơn vị trong toàn ngành ghi nhận và đánh giá cao, đã được Hội đồng Thi đua Khen thưởng KTNN ghi nhận là đơn vị dẫn đầu trong khối tham mưu, sự nghiệp của toàn ngành. Cùng với 02 đơn vị khác trong ngành, Văn phòng KTNN đã được nhận Cờ thi đua của Tổng KTNN cùng với nhiều danh hiệu, hình thức khen thưởng cho các phòng, ban và cá nhân đã có những đóng góp cho hoạt động chung của Văn phòng và KTNN. Đây sẽ là những động lực để tập thể lãnh đạo Văn phòng, cán bộ, công chức và người lao động của Văn phòng KTNN tiếp tục phấn đấu vì sự phát triển chung của ngành KTNN trong giai đoạn mới.   Đơn vị lao động xuất sắc trong nhiều năm liền Nhiều năm được Bằng khen của Tổng KTNN Năm 2001, 2002 - Cờ thi đua của Tổng KTNN Năm 2009 - Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ Năm 2014 - Cờ thi đua của Tổng KTNN cho đợt thi đua 365 ngày chào mừng 20 năm thành lập ngành Diệu Thúy

CHUYÊN GIA KINH TẾ PHẠM CHI LAN: PHÁT TRIỂN KINH TẾ BỀN VỮNG PHẢI ĐƯỢC ƯU TIÊN

"Không chạy theo các chỉ tiêu ngắn hạn. Đã đến lúc cần hành động ngay vì mục tiêu phát triển nền kinh tế bền vững" là những nhấn mạnh tựa như những gạch đầu dòng mà chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chia sẻ.   Bà Lan nói: Một nền kinh tế phát triển bền vững phải dựa trên 6 khía cạnh: Phát triển kinh tế, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, phát triển văn hóa, vấn đề con người và vấn đề dân chủ. Với những thành tựu Việt Nam đã đạt được trong vài năm gần đây, Đảng và Quốc hội cũng đã thừa nhận tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhưng chưa bền vững. Sự tăng trưởng của kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào một số yếu tố bên ngoài, do đó nếu tăng trưởng mà không bền vững thì sự lệ thuộc ngày càng lớn, càng dẫn tới yếu tố phát triển thiếu ổn định. P.V: Đối với nước ta, trong 6 yếu tố để một nền kinh tế phát triển ổn định, các yếu tố mang tính chất kinh tế còn nổi lên những bất cập gì, thưa bà? Bà Phạm Chi Lan: Để nền kinh tế tăng trưởng được 1% Việt Nam cần rất nhiều vốn đầu tư mà chủ yếu là thông qua các nguồn vốn ODA, FDI. Điều này chứa đựng sẵn những bất ổn. Trong khi đó từ nguồn vốn trong nước được huy động từ nguồn thuế của dân và DN đã rất cao rồi nên không thể tăng thêm được nữa vì sẽ làm giảm động lực phát triển của DN. Một vấn đề nữa của nền kinh tế là chúng ta dựa quá lâu, quá nhiều vào lực lượng lao động giá rẻ, hiện tại chúng ta đang rơi vào bẫy thu nhập giá rẻ. Một vấn đề khác nữa là nền kinh tế Việt Nam ưu ái quá lâu khối DN Nhà nước, dẫn đến thiếu công bằng với DN ngoài quốc doanh. Do đó trong các chiến lược phát triển kinh tế, cần nhấn mạnh vào công việc tái cấu trúc, trong đó chú trọng chất lượng hơn số lượng, hiệu quả hơn độ lớn, kỹ năng hơn lao động giá rẻ, công nghệ hơn số lượng, phát triển kinh tế tư nhân hơn đầu tư vào DN Nhà nước. P.V: Tái cấu trúc nền kinh tế vốn là chủ trương xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong suốt thời gian qua, được thể hiện trong Dự thảo Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng 11. Tuy nhiên từ chủ trương cho đến thực tế còn là một khoảng cách, thưa bà? Bà Phạm Chi Lan: Khoảng cách này trong nhiều trường hợp là vấn đề con người. Đơn cử như việc xả nước thải của Vedan, không thể không nói là chúng ta chưa có các chế tài hay quy định cụ thể mà vấn đề là ở con người. Ở đây các cấp quản lý không thực hiện đúng bổn phận trách nhiệm của mình. Hoặc như để nền kinh tế phát triển ổn định rất cần một chính sách cũng ổn định trong điều hành tiền tệ. Nhưng thực tế hiện nay cho thấy từ chủ trương đến hành động đúng là còn một khoảng cách. PV: Vậy các yếu tố không mang tính kinh tế như công bằng xã hội, môi trường, con người, văn hóa có vai trò như thế nào trong việc giữ phát triển ổn định một nền kinh tế? Bà Phạm Chi Lan: Để phát triển kinh tế nếu bỏ qua những yếu tố này chúng ta sẽ có rất nhiều những dòng sông chết như sông Thị Vải, số sân gôn quá nhiều lấy hết đất nông nghiệp, tình trạng người dân ven đô không có việc làm sau khi đã nhận đền bù đất cho các khu công nghiệp... Hiện nay vấn đề công bằng xã hội đang bức thiết. Trước đổi mới, sự phân cấp giàu nghèo trong xã hội là 3 lần, nay là 8,6 lần. Sự phân cấp lớn này tiềm ẩn những rủi ro mâu thuẫn trong xã hội. Khi tài sản ngày càng được tích tụ trong tay một số ít người, đặc biệt là nhóm người giàu lên từ đầu cơ đất đai thì khía cạnh khác đó là sự mất đất của những người dân ven đô. Cùng với đó là sự xuống cấp trong đạo đức xã hội hiện nay, kể cả trong giới công chức các ngành nhạy cảm như giáo dục, y tế đến phần lớn người dân. Đây là những vấn đề xã hội đáng suy nghĩ trong khi nền kinh tế đang phát triển không bền vững. P.V: Môi trường xuống cấp là một hệ quả trực tiếp từ sự phát triển không bền vững của nền kinh tế. Quan điểm của bà về vấn đề này? Bà Phạm Chi Lan: Vấn đề môi trường tại hai khu vực kinh tế lớn là Hà Nội và TP.HCM đang thực sự nghiêm trọng, đặc biệt ô nhiễm môi trường sống. Tại hai thành phố này có những chỉ tiêu về khói bụi, ô nhiễm nước sinh hoạt, các con sông... vượt chuẩn Việt Nam cũng như cao hơn so với thế giới. Cùng với đó là vấn nạn tàn phá rừng, dẫn đến những nguy cơ mưa lớn, lũ lụt phá hủy cơ sở hạ tầng xã hội và kinh tế khiến Nhà nước và người dân lại phải mất thời gian gây dựng lại. Khai thác và tận thu, XK nguồn tài nguyên thô, ít giá trị XK cũng khiến chúng ta cạn kiệt tài nguyên, đến khi xây dựng được nhà máy lọc dầu Dung Quất thì nguồn dầu trong nước sắp cạn kiệt, sắp tới dự kiến sẽ phải NK dầu nguyên liệu. P.V: Xin cảm ơn bà!

RỦI RO TRONG QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG NỢ CÔNG

Trong hoạt động kiểm toán nợ công, cần nhận dạng đầy đủ và đánh giá đúng mức độ trọng yếu của các rủi ro kiểm toán. Đây là cơ sở quan trọng để kiểm toán viên lựa chọn phương pháp kiểm toán thích hợp , xác định quy mô và cách thức thu thập bằng chứng kiểm toán và quan trọng hơn cả là đưa ra các ý kiến của kiểm toán.   Rủi ro kiểm toán gồm 3 bộ phận:  Rủi ro tiềm tàng;  Rủi ro kiểm soát;  Rủi ro phát hiện. Nhận dạng các rủi ro trong quản lý và sử dụng nợ công Vấn đề đầu tiên cũng là vấn đề khá quan trọng là phải nhận dạng và phát hiện các rủi ro tiềm tàng rủi ro kiểm soát ngay trong quá trình diễn tiến của nợ công , từ những quy định pháp lý và cơ chế quản lý của nhà nước, cho đến các công việc của người đi vay, đàm phán, ký kết vay nợ, nhận vốn, phân phối vốn vay, giải ngân cho đến sử dụng và trả nợ Về mặt pháp lý: Cho đến năm 2010, Việt Nam mới có Luật Quản lý  nợ nhà nước (còn gọi là nợ công). Trước đó việc quản lý nợ công chủ yếu là Nghị định của Chính phủ nhưng cũng chưa thật đầy đủ. Các quy định về quản lý nợ công rời rạc trong từng lĩnh vực, như quản lý nợ nước ngoài, quản lý nợ trong nước của khu vực công, quản lý thị trường nợ chính phủ. Các  hoạt động quản lý nợ công cũng thường phải tuân thủ không chỉ một nghị định và văn bản hướng dẫn khác, mà chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản quy phạm pháp quy và văn bản hướng dẫn khác nhau, dẫn đến  mâu thuẫn, chồng chéo trong khung pháp lý và trong thực hành quản lý nợ nhà nước, quản lý nợ công. Có thể liệt kê một số văn bản có quy định liên quan đến nợ và quản lý nợ nhà nước, nợ công :     (1)- Văn bản có quy định điều chỉnh nợ của chính phủ, nợ nhà nước trước hết là Luật Ngân sách Nhà nước có đề cập một số nguyên tắc trong quản lý nợ công, như Vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước phải đảm bảo nguyên tắc không sử dụng cho tiêu dùng, chỉ được sử dụng cho mục đích phát triển và bảo đảm bố trí ngân sách để chủ động trả hết nợ khi đến hạn; Cho phép các địa phương huy động vốn trong nước cho đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng thuộc phạm vi ngân sách cấp tỉnh bảo đảm, trong danh mục đầu tư trong kế hoạch 5 năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhưng vượt quá khả năng cân đối của ngân sách cấp tỉnh năm dự toán, với mức dư nợ không vượt quá 30% vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong nước hàng năm của ngân sách cấp tỉnh; Giao cho Bộ Tài chính thống nhất quản lý nhà  nước về vay và trả nợ của Chính phủ, vay và trả nợ của quốc gia; xây dựng chiến lược, kế hoạch vay nợ, trả nợ trong nước, ngoài nước trình Chính phủ...           Về vay và quản lý nợ nước ngoài - Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 của Chính phủ quy định về quản lý nợ và trả nợ nước ngoài; Nghị định 17/2001/NĐ-CP (ban hành Quy chế Quản lý và Sử dụng nguồn Hỗ trợ phát triển chính thức) có nội dung liên quan đến quản lý các dự án ODA vay nợ, đã được thay thế bằng Nghị định của Chính phủ số 131/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 11 năm 2006 với một số nội dung được sửa đổi và bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả việc quản lý và sử dụng nguồn vốn này. Nghị định 134/2005/NĐ-CP năm 2005 về Quy chế quản lý vay, trả nợ nước ngoài. Quy chế đã tạo ra một khuôn khổ pháp lý toàn diện và rõ ràng hơn nhằm thực hiện nguyên tắc Chính phủ thống nhất quản lý nợ quốc gia. Nghị định đã có những quy định gần hơn đến nguyên tắc, thông lệ quốc tế về quản lý nợ. Quy chế đã xác định rõ mục tiêu, phạm vi, các nguyên tắc quản lý nợ, thẩm quyền người đại diện cho Nhà nước, đại diện Chính phủ đi đàm phán vay, ký kết vay, cam kết trả nợ và trả nợ, đưa ra định nghĩa và phân loại nợ theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế (công tác thống kê, báo cáo và phân tích so sánh tình trạng nợ với các nước cùng tiêu thức, trình độ phát triển). Các nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng nhà nước, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tài chính  ( Nghị định 52/2003 ngày 19/5/2003, Nghị định 61/2003 ngày 6/6/2003 và Nghị định 77/2003 ngày 1/7/2003 đã có quy định trách nhiệm quản lý nợ của các cơ quan. Quyết định 72/1999 quy định quy chế thành lập , sử dụng và quản lý quỹ tích lũy trả nợ nước ngoài. Quỹ được thành lập nhằm tích lũy số tiền thu hồi các khoản vay nợ/viện trợ nước ngoài của Chính phủ được cho vay lại và số tiền phí bảo lãnh Chính phủ để đảm bảo hoàn trả các khoản nợ nước ngoài và tạo nguồn tài chính bù đắp các rủi ro có thể xảy ra khi chính phủ tiến hành bảo lãnh việc vay nợ nước ngoài của các doanh nghiệp, các tổ chức tín dụng . Năm 2006, Chính phủ đã ban hành các quyết định về các quy chế cụ thể quản lý nợ nước ngoài : Quy chế cấp và quản lý bảo lãnh Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài; Quy chế về Hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài của quốc gia;  Quy chế thu thập, báo cáo, tổng hợp, chia sẻ và công bố thông tin về nợ nước ngoài; Quy chế cho vay lại từ nguồn vay, viện trợ nước ngoài của Chính phủ. Đối với nợ và vay nợ trong nước Cho đến năm 2010 mới có một số văn bản điều chỉnh một số công đoạn trong quy trình quản lý nợ: Pháp lệnh số 12/1999/PL- UBTVQH10 ngày 27/4/1999 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phát hành công trái xây dựng Tổ Quốc;  Nghị định số 141/2003/NĐ-CP của Chính phủ quy định “Về việc Phát hành Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và Trái phiếu Chính quyền địa phương”. Nghị định quy định các chủ thể phát hành các loại trái phiếu Chính phủ và khu vực nhà nước, bao gồm KBNN, các tổ chức tài chính, tín dụng Nhà nước, UBND cấp tỉnh (ủy quyền cho Kho bạc Nhà nước hoặc tổ chức tài chính tín dụng trên địa bàn phát hành); mục đích phát hành, điều kiện phát hành, phương thức phát hành, nguyên tắc xác lập lãi suất, các quy định về sử dụng và thanh toán của từng loại trái phiếu, đồng thời cũng quy định các vấn đề trách nhiệm và quyền hạn quản lý nhà nước của các cơ quan Chính phủ (Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước) đối với quá trình phát hành và bảo lãnh Chính phủ. Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 21/2004/TT-BTC (ngày 24/3/2003) hướng dẫn việc đấu thầu trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương qua thị trường chứng khoán tập trung.Thông tư số 29/2004/TT-BTC hướng dẫn việc bảo lãnh phát hành và đại lý phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương; Quyết định 66/2004/QĐ-BTC, Thông tư 19/2004/TT-BTC và Thông tư 31/2005/TT-BTC. Có thể đánh giá, các văn bản pháp quy đã góp phần tăng cường quản lý nợ nhà nước và cũng là cơ sở đẩy mạnh huy động vốn cho đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn. Tuy nhiên, các rủi ro trong quy định pháp lý và tổ chức thực hiện vay nợ quản lý nợ công và sử dụng nợ công là rất đáng kể, có thể nhận dạng như sau:  Mặc dù đã có Luật Quản lý nợ công nhưng chưa hình thành một hệ thống văn bản pháp quy đồng bộ và đầy đủ về quản lý nợ. Rất nhiều vấn đề về vay nợ, trả nợ, sử dụng vốn vay chưa có quy định pháp lý, chưa có văn bản hướng dẫn để điều chỉnh. (1)-Các văn bản quy phạm pháp luật đã có về quản lý nợ phần nhiều mới dừng lại ở các quy định chung, các quy định có tính nguyên tắc. (2)-Cần thống nhất hơn nữa trong cách hiểu và giải thích các khái niệm về nợ cũng như phạm vi quản lý nợ trong các văn bản pháp quy hiện hành. Trước hết là các khái niệm rất cơ bản về : Vay nợ nước ngoài, vay ngắn hạn, vay trung và dài hạn; vay hỗ trợ phát triển chính thức; vay thương mại của chính phủ; thời gian ân hạn, bảo lãnh vay vốn nước ngoài; cho vay lại; hạn mức vay nợ, dịch vụ trả nợ; Quỹ tích lũy trả nợ.... (3)-Chưa thực sự gắn kết giữa quản lý Nợ trong nước và Nợ ngoài nước. Cần tiếp tục hoàn thiện về khuôn khổ pháp lý của hai lĩnh vực quản lý này. Trong đó đáng lưu ý là sự gắn kết trong thu thập, chia sẻ thông tin nợ, giám sát chỉ số nợ, quy chế cấp bảo lãnh Chính phủ. Cần cập nhật những khái niệm, những phương pháp luận quản lý nợ hiện đại, phù hợp thông lệ quốc tế. Mục tiêu và nguyên tắc quản lý nợ trong nước cần được xác định và quy định thật rõ ràng. Hệ thống chỉ tiêu báo cáo, đánh giá và cơ chế thu thập, chia sẻ thông tin và giám sát nợ trong nước chưa được xây dựng. Trách nhiệm của các cơ quan trong quản lý nợ cần có sự phân định và phân công rõ ràng hơn. Đáng lưu ý là, các quy định pháp lý mới tập trung  đến quản lý khâu phát hành để đáp ứng được các yêu cầu tài trợ (bội chi NSNN) với chi phí thấp (về mặt ngắn hạn), chưa quan tâm nhiều đến phát triển thị trường nợ trong nước, chưa quan tâm nhiều đến việc tạo lập kênh huy động vốn ổn định với chi phí hợp lý xét về trung – dài hạn (4)-Về phân định trách nhiệm  và tổ chức công tác quản lý nợ  Đã có những quy định về trách nhiệm và thẩm quyền quản lý nợ của các cơ quan thuộc Chính phủ. Các văn bản của nhà nước đã giao nhiệm vụ quản lý nợ  cho một số cơ quan Chính phủ khác nhau, theo chức năng của các cơ quan như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ngân hàng nhà nước... Tuy nhiên còn không ít vướng mắc cần được phân định rõ ràng hơn và khoa học hơn cả về pháp lý và cả trên thực tế , đặc biệt trong các nhiệm vụ xây dựng chiến lược nợ dài hạn, trong lĩnh vực quản lý vay, trả nợ nước ngoài, nhiệm vụ tìm kiếm, đàm phán ký kết về vay ODA nước ngoài của Chính phủ, trong lĩnh vực quản lý vay, trả nợ trong nước  Những rủi ro có thể xảy ra do sự phân tán, chồng chéo trong chức năng, nhiệm vụ, của việc thiếu một đơn vị chuyên trách thực sự  làm nhiệm vụ quản lý và  điều phối; Quản lý nợ không tập trung dẫn đến thiếu nguồn thông tin đầy đủ, toàn diện và kịp thời để giám sát tổng thể rủi ro tài khóa từ hoạt động vay nợ của Chính phủ và khu vực công ; để hoạch định các chính sách/chiến lược nợ  hiệu quả với chi phí và rủi ro thấp nhất có thể ; Không có cơ quan đầu mối/chuyên trách của Chính phủ về quản lý nợ dẫn đến thiếu sự phối hợp ở cấp vĩ mô giữa các chính sách tài khoá, tiền tệ và quản lý nợ (ví dụ việc 2 cơ quan Chính phủ cùng phát hành tín phiếu). Chưa chủ động trong điều hành vay nợ để giảm thiểu chi phí: có những thời điểm vốn nước ngoài rút về chưa sử dụng hết (do nhiều nhà tài trợ không cam kết được vốn vào giai đoạn Chính phủ xây dựng dự toán NSNN mà đến giữa năm mới đưa ra cam kết và giải ngân nên vốn rút về không sử dụng được ngay), nhưng trong nước vẫn huy động theo kế hoạch, dẫn đến tăng chi phí huy động. Việc tổ chức quản lý phân tán dẫn đến không tập trung được nguồn nhân lực có kỹ năng chuyên môn, hạn chế đáng kể các cơ hội đào tạo, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý nợ.  Về rủi ro trong quy trình nghiệp vụ và hành chính trong quản lý nợ và sử dụng nợ công   RỦI RO KIỂM TOÁN KHI KIỂM TOÁN QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG NỢ CÔNG (Trích tham luận tại Hội thảo “Tổ chức kiểm toán đối với việc quản lý và sử dụng các khoản nợ công”) PGS.TS. Đặng Văn Thanh Chủ tịch Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam     Trên cơ sở các quy định mang tính pháp lý có thể  xác định phạm vi  quản lý nợ nhà nước ( nợ công ) bao gồm  quản lý nợ trong nước và nợ nước ngoài của khu vực nhà nước. Nợ nhà nước là toàn bộ các nghĩa vụ nợ thực tế của khu vực nhà nước và những bảo lãnh của Chính phủ. Chính phủ có trách nhiệm chuẩn bị khả năng trả nợ để trang trải nợ và duy trì hệ số tín nhiệm của quốc gia. Cần nhận dạng các rủi ro trong từng công đoạn, từng nghiệp vụ của quy định vay và trả nợ trong toàn bộ công tác quản lý nợ công. Rủi ro có thể xảy ra trong các công việc  của Quy trình vay và trả nợ; Xây dựng chiến lược , kế hoạch vay nợ, huy động vốn Xác định nhu cầu, nguồn có thể huy động, vay nợ            Đàm phán vay nợ            Ký kết văn bản            Giải ngân            Sử dụng vốn vay            Trả nợ        Đánh giá rủi ro nợ công Đánh giá rủi ro nợ công là công việc thuộc về các chuyên viên phân tích, chuyên viên kế toán và chuyên viên kiểm toán. Mức độ rủi ro cao hay thấp phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan của mục đích vay nợ, quản lý và sử dụng vốn vay. Các yếu tố khách quan Các yếu tố khách quan thường là những nhìn nhận ban đầu và tổng quát về triển vọng của nhu cầu vốn và mục đích sử dụng vốn. Nếu việc sử dụng vốn vay nợ thực sự có hiệu quả, mục đích sử dụng vốn vay thành công cao thì rủi ro nợ công  thấp và ngược lại. Các yếu tố này bao gồm: Môi trường kinh tế: Tăng trưởng, minh bạch thị trường và tài chính công, khả năng hấp thụ nguồn vốn.. Sự phát triển của ngành lĩnh vực có liên quan: nếu ngành lĩnh vực có  liên quan đến vốn vay đang ở giai đoạn phát triển, có nhiều triển vọng  thì việc sử dụng vốn vay  có nhiều khả năng thành công. Ngược lại; nếu ngành lĩnh vực liên quan đến dự án đang ở giai đoạn trì trệ,  suy thoái và có nhiều đơn vị  trong ngành làm ăn yếu kém, trì trệ  thì khả năng thành công trong sử dụng vốn vay  là thấp. Môi trường pháp lý: Luật đầu tư công, Luật quản lý nợ công, Luật ngân sách nhà nước, Luật tài chính quốc gia, Luật  bảo hiểm, Luật cạnh tranh... là những điều khoản cần được quan tâm khi đánh giá từng khoản nợ công. Các yếu tố chủ quan     Các yếu tố chủ quan có thể được hiểu là sự ổn định về chính trị -xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô, tính tin cậy khi đi vay và  khả năng trả nợ của nhà nước khi đến hạn, năng lực nhà nước trong phân bổ và sử dụng  nguồn vốn vay. Nhân tố này được phân tích chủ yếu dựa vào các dữ liệu về kinh tế, thông tin về tài chính nhà  nước do kế toán cung cấp. Chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Hiệu quả đầu tư và sử dụng các nguồn lực của đất nước qua các năm. Xu hướng và triển vọng qua từng giai đoạn phát triển. Các khoản vay nợ, các khoản tín dụng hiện tại và lịch sử của các khoản nợ trong quá khứ của nhà nước: Nếu hiện tại đang có các khoản vay nợ lớn và có các khoản vay tín dụng quá hạn chưa được thanh toán hay có các khoản vay tín dụng đã được thanh toán nhưng quá hạn phải chi trả... thì độ  tin cậy là thấp, và tính rủi ro của nợ công là cao. Năng lực và tiềm lực tài chính quốc gia hiện tại và triển vọng trong tương lai. Cần căn cứ các nguồn lực hiện có, trước hết là quy mô GDP, của ngân sách nhà nước, tài sản quốc gia và khả năng tăng trưởng của nền kinh tế. Tất nhiên cũng có thể căn cứ vào vị thế của đất nước, uy tín quốc gia và sự ổn định chính trị- xã hội. Có  thể đánh giá mức rủi ro của nợ công  trên cơ sở xác định tỷ lệ tổng số nợ trên tổng GDP, hoặc tổng số nợ trên tổng ngân quỹ quốc gia hoặc tổng thu ngân sách nhà nước. Nếu tỷ lệ này là cao thì rủi ro tín dụng cao, và ngược lại. Đây cũng là tỷ lệ thể hiện năng lực thanh toán , chi trả của một quốc gia. Tổng ngân quỹ quốc gia bao gồm quỹ ngân sách nhà nước và các quỹ tập trung, chuyên dụng của nhà nước. Tính thanh khoản cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro nợ công. Dù đất nước  có tình trạng kinh tế tốt, tăng trưởng cao,  nhưng nếu tính thanh khoản hay khả năng huy động các nguồn tài chính không cao, ngân quỹ và các quỹ dự trữ mỏng thì  có nhiều khả năng không  thanh toán các khoản nợ khi đến hạn . Điều này đồng nghĩa với việc đất nước có rủi ro nợ công cao. Rủi ro nợ công trong các khoản đi vay về cho vay lại Một trong những hoạt động có liên quan đến nợ công là nhà nước đi vay về cho vay lại hoặc đứng ra bảo lãnh cho các tổ chức kinh tế vay. Rủi ro cho vay và bảo lãnh là một nhân tố hết sức quan trọng, đòi hỏi  phải có khả năng phân tích, đánh giá và quản lý rủi ro hiệu quả. Nếu nhà nước chấp nhận nhiều khoản vay về cho vay lại hoặc bảo lãnh vay nợ với những khoản vay có  rủi ro cao thì chính phủ  có khả năng phải đối mặt với tình trạng không có vốn để trả nợ thay. Điều này có thể làm giảm uy tín quốc gia và tăng gánh nặng cho ngân sách nhà nước, thậm chí có thể lâm vào tình trạng bị trừng phạt hoặc bị kiện trên thương trường quốc tế.  Vì thế cơ quan quản lý nợ công  và quản trị rủi ro là hai bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức các quốc gia.