Thứ bảy, 18/10/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ bảy, 18/10/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

Việt Nam hướng tới nước thu nhập cao: Vai trò then chốt của thể chế và khu vực tư nhân

Trong bối cảnh kinh tế - thương mại toàn cầu nhiều biến động, Việt Nam đang đặt mục tiêu đầy tham vọng trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. Theo Chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Phạm Thế Anh - Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân), để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần một chiến lược cải cách toàn diện, tập trung vào hoàn thiện thể chế, cải thiện hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô, thúc đẩy vai trò của khu vực tư nhân và đặc biệt là nâng cao chất lượng thực thi chính sách - điểm hạn chế suốt nhiều năm qua.

thumbnail
PGS.TS. Phạm Thế Anh
Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân)

Ông đánh giá thế nào về thực trạng nền kinh tế hiện nay và những thách thức chính mà nước ta phải đối mặt trên con đường trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045?

Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế ấn tượng trong hơn ba thập kỷ qua, với tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,73%/năm và thu nhập bình quân đầu người từ 80 USD/người năm 1990 vươn lên mạnh mẽ đạt 4.700 USD/người năm 2024 theo thông tin từ Ngân hàng Thế giới (WB).

Hơn nữa, trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam đã và đang lựa chọn mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu. Nếu như vào đầu những năm 1990, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong GDP của Việt Nam chỉ khoảng dưới 30%, thì con số này đã tăng lên trên 50% vào những năm 2000 và trên 80% trong những năm gần đây, để từ đó trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở thương mại lớn nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong cả giai đoạn 1991-2024 là khoảng 17%/năm.

Việt Nam còn tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện một loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với các đối tác kinh tế quan trọng, được kỳ vọng sẽ làm thay đổi toàn diện kinh tế Việt Nam trong thập kỷ tới. Cùng với đó, các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, cải thiện môi trường kinh doanh... tiếp tục được thực hiện để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết vấn đề việc làm và phục vụ mục tiêu xuất khẩu của đất nước.

Những năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã được cải thiện nhưng vẫn tồn tại những rủi ro và thách thức nhất định. Nhìn vào những con số và thực tế nền kinh tế thì thấy, tốc độ tăng trưởng GDP đang có xu hướng giảm dần qua các thời kỳ, từ 7,41% trong giai đoạn 1990-1999, xuống còn 7,27% trong giai đoạn 2000-2009, 6,3% trong giai đoạn 2010-2019 và 5,14% kể từ năm 2020 đến nay.

Nguyên nhân do mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và xuất khẩu đang chạm ngưỡng do năng suất biên của vốn giảm dần. Ngoài ra, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến, chế tạo hướng ra xuất khẩu cũng đang gặp thách thức lớn khi căng thẳng thương mại gia tăng trên toàn cầu. Các nước có xu hướng áp đặt thuế quan và các rào cản thương mại khiến những quốc gia có độ mở thương mại và đầu tư lớn như Việt Nam trở nên dễ bị tổn thương hơn.

Ông có thể phân tích sâu hơn về những bất cập trong chính sách tài khóa và tiền tệ, cũng như hướng cải thiện?

Khác với nhiều nền kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của Việt Nam đang phải “gánh” đa mục tiêu, cùng với kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị tiền đồng, đôi khi chính sách này còn phải hỗ trợ tăng trưởng thông qua các kênh thúc đẩy/định hướng tín dụng và hỗ trợ lãi suất, thậm chí là “hỗ trợ” cho chính sách tài khóa trong việc phát hành trái phiếu chính phủ.

Điều này dẫn đến thông điệp chính sách thiếu nhất quán, gây tâm lý bất an cho nhà đầu tư và người dân. Để cải thiện, theo tôi, cần tăng cường tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước, được toàn quyền theo đuổi mục tiêu lạm phát (khoảng 3% - 4%) và ổn định tỷ giá mà không chịu chi phối từ các yêu cầu ngắn hạn của Chính phủ, như ưu tiên tăng trưởng tín dụng.

Ngoài ra, việc can thiệp tiền tệ hiện nay còn mang nặng tính hành chính, đôi khi không tuân theo quy luật thị trường. Công cụ chính sách tiền tệ có tác động thực sự tới thị trường lại là “hạn mức tăng trưởng tín dụng” - mang nặng tính “xin - cho” giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng. Chất lượng tín dụng và đích đến của dòng vốn còn chưa hiệu quả, tiến độ triển khai các chuẩn mực quốc tế về an toàn hệ thống ngân hàng còn chậm, nợ xấu có nguy cơ gia tăng và khó xử lý. Tất cả điều này tạo thêm thách thức cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, nên cần những thay đổi và cải thiện hiệu quả hơn.

Về chính sách tài khóa, sự bất hợp lý thể hiện ở cơ cấu chi, với chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn, giải ngân đầu tư công chậm và tỷ lệ thu ngân sách/GDP đang ở mức khá cao. Điều này cho thấy, dư địa tài khóa dành cho hàng loạt các dự án đầu tư quy mô lớn là rất hạn chế, đòi hỏi phải có nguồn thu mới bền vững và tái cơ cấu chi tiêu hiệu quả hơn.

thumbnail

Theo đó, Việt Nam cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp quan trọng, cần thu hẹp đáng kể chi thường xuyên của bộ máy nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, tinh giản biên chế và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi kém hiệu quả sẽ tiết kiệm được một lượng vốn lớn, có thể tái phân bổ cho đầu tư phát triển hạ tầng. Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống. Chẳng hạn, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi bởi nhiều lợi ích mà sắc thuế này có thể đem lại.

Với xu hướng chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang dẫn dắt bởi đầu tư công, ông nhận thấy đâu là những vấn đề còn gây thách thức?

Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP cao, ít nhất là 8% cho năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo, nhằm đưa nền kinh tế từ một nước thu nhập trung bình hiện nay trở thành một nước thu nhập cao vào năm 2045. Vì thế, Việt Nam đang có xu hướng chuyển sang mô hình tăng trưởng dẫn dắt bởi đầu tư công trong bối cảnh căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng.

Tuy nhiên, điều này cần các chính sách đồng bộ để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thực hiện sự dịch chuyển hợp lý giữa các khoản chi và khai thác các nguồn thu mới bền vững thay thế cho các nguồn thu kém bền vững hoặc đang làm giảm động lực sản xuất và tiêu dùng. Nếu không làm được, việc tăng mạnh chi tiêu công rất dễ khiến nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nguy cơ thâm hụt ngân sách cao, bất ổn vĩ mô và thậm chí rơi vào khủng hoảng. Thêm vào đó, với dư địa chính sách tiền tệ hạn chế và tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao, việc cố gắng mở rộng tiền tệ để kích thích đầu tư có thể gây ra lạm phát và bong bóng giá tài sản, tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, khiến dòng vốn không đi vào sản xuất và làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô.

Do vậy, Việt Nam phải chọn lọc được các dự án đầu tư công một cách hiệu quả, chủ yếu là các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế đang phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao. Ngoài ra, Việt Nam cần khắc phục tình trạng giải ngân đầu tư công chậm, sử dụng chính sách thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Việt Nam cũng cần phải khuyến khích được khu vực tư nhân tham gia các dự án công - tư (PPP) để tận dụng hiệu quả quản lý và công nghệ của họ.

Trong các định hướng về phát triển kinh tế bền vững, ông đánh giá thế nào về vai trò của khu vực tư nhân?

Khu vực tư nhân Việt Nam đang đóng góp một tỷ trọng lớn trong GDP, thu ngân sách nhà nước, cũng như sử dụng lao động, nhưng tiềm năng còn lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, khu vực này còn gặp không ít khó khăn, chẳng hạn như khó tiếp cận vốn, thiếu liên kết với doanh nghiệp FDI, môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập…

Vừa qua, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành các nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, với việc xác định đây là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Vì thế, các cơ quan liên quan cần chuyển các nghị quyết thành hành động cụ thể, bằng các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp tư nhân được hưởng thụ, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.

Cũng về doanh nghiệp, hiện nước ta đang duy trì một số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nhiều lĩnh vực, kể cả những ngành mà sự tham gia của Nhà nước là không cần thiết. Thực trạng này đặt ra nhiều thách thức khi nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực quốc gia. Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn thoái vốn khỏi các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, không cần thiết, để dành nguồn lực đầu tư vào các dự án trọng điểm quốc gia mang tính động lực, có khả năng tạo ra giá trị kinh tế và xã hội cao hơn. Bên cạnh đó, nguồn thu từ việc thoái vốn cũng có thể được sử dụng để tham gia cùng các doanh nghiệp tư nhân vào các dự án trọng điểm thông qua hợp tác công - tư (PPP).

Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa chủ trương và thực thi chính sách nhằm đảm bảo các giải pháp kinh tế vĩ mô được triển khai hiệu quả, thưa ông?

Khoảng cách giữa chủ trương và thực thi là nhược điểm lâu nay của Việt Nam. Chủ trương thì đúng, nhưng khi triển khai cụ thể thì thiếu sự chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Nhiều chính sách đưa ra rất hợp lý nhưng khi thực hiện lại gặp nhiều vướng mắc, dẫn đến hiệu lực không cao.

Do vậy, điều cần thiết bây giờ là tập trung tháo gỡ những nút thắt trong quá trình thực thi để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, thay vì chỉ dừng lại trên giấy tờ hay trong các văn bản chỉ đạo. Việc thực thi cần được theo dõi sát sao hơn, đó là cần có một bộ phận chuyên trách để giám sát, phản ứng nhanh, tiếp nhận thông tin phản ánh từ doanh nghiệp và người dân. Các phản ánh này phải được tổng hợp định kỳ, để nắm bắt kịp thời những vướng mắc, rủi ro trong quá trình triển khai. Trên cơ sở đó, Nhà nước cần đưa ra phản ứng chính sách nhanh chóng, kịp thời, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan, từng bộ phận có trách nhiệm giải quyết.

Cùng với đó là cần đẩy mạnh cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường tính minh bạch, dễ dự đoán của chính sách để doanh nghiệp an tâm đầu tư dài hạn.

Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông!

Hương Dịu (thực hiện)

(Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 6/2025)

Lượt xem: 1

Sửa toàn diện Luật Quy hoạch để đáp ứng nhu cầu phát triển mới

GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khoá 15, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng sau hơn 7 năm thực thi, Luật Quy hoạch năm 2017 (có hiệu lực từ đầu năm 2019) đã mang lại nhiều kết quả tích cực song cũng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất cập trong triển khai. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi toàn diện Luật tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 15 vào tháng 10/2025 là cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới. GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khoá XV, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Ông đánh giá như thế nào về việc thực hiện Luật Quy hoạch năm 2017? Phải khẳng định rằng Luật Quy hoạch ra đời là bước ngoặt quan trọng trong công tác quy hoạch của Việt Nam với điểm mấu chốt là xóa bỏ tình trạng TAÏP CHÍ NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC KIEÅM TOAÙN Số 213 | tháng 7/2025 | 59 quy hoạch trở thành “lãnh địa riêng”, thiếu sự liên thông, thậm chí là rào cản của quá trình phát triển của từng ngành, lĩnh vực. Luật Quy hoạch năm 2017 đặt yêu cầu về viêc lập quy hoạch tích hợp, bắt buộc các ngành, lĩnh vực phải phối hợp, liên kết với nhau để lập quy hoạch. Nhờ đó, số lượng quy hoạch từ cấp thấp đến cấp cao giảm đến 97%. Ở mỗi cấp điều hành chỉ có một quy hoạch duy nhất. Đây là bước tiến quan trọng, tạo ra bức tranh tổng thể, đồng bộ về quy hoạch. Luật Quy hoạch năm 2017 hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống quy hoạch quốc gia thống nhất, đồng bộ, đa ngành và liên kết vùng. Đây là một trong những đạo luật then chốt để thể chế hóa các chiến lược phát triển và điều phối không gian quốc gia một cách hiệu quả. Trước khi Luật Quy hoạch ra đời, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch gồm có 53 luật, 07 pháp lệnh, 62 nghị định (không kể các văn bản luật, pháp lệnh và nghị định được điều chỉnh, bổ sung), ngoài ra còn có một số luật, pháp lệnh và nghị định có quy định về chấp hành, thực hiện theo quy hoạch. Luật Quy hoạch năm 2017 đã tạo dựng hệ thống quy hoạch quốc gia thống nhất, góp phần thay đổi cơ bản tư duy, phương pháp và nội dung hoạt động quy hoạch theo hướng phù hợp hơn với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn chu trình chiến lược - quy hoạch - kế hoạch - đầu tư, tăng cường sự liên kết phát triển, đặc biệt là liên kết vùng, thúc đẩy các mục tiêu phát triển đất nước. Theo ông, đâu là những điểm hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai Luật Quy hoạch? Qua nhiều năm triển khai Luật Quy hoạch, công tác quy hoạch ngày càng đóng vai trò quan trọng, giúp Nhà nước hoạch định, kiến tạo các động lực phát triển mới; không gian phát triển quốc gia từng bước được tổ chức hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc. Việc triển khai công tác quy hoạch theo cách tiếp cận tổng hợp, đa ngành đã có sự thay đổi rõ rệt về tư duy, nhận thức và hành động của các ngành, các địa phương theo hướng chủ động phối hợp trong quá trình lập quy hoạch và tăng cường liên kết phát triển. Tuy nhiên, do lần đầu tiên triển khai Luật Quy hoạch với các nội dung mới nên vẫn còn nhiều điểm chưa đạt được đồng thuận, thiếu sự đồng bộ trong thực thi. Trong quá trình triển khai Luật Quy hoạch, nhiều địa phương, bộ, ngành đã gặp không ít vướng mắc do các quy định còn chưa rõ ràng, thiếu tính liên kết giữa các loại quy hoạch, hoặc chưa có cơ chế xử lý hiệu quả khi phát sinh xung đột giữa các quy hoạch cùng cấp hoặc khác cấp. Bên cạnh đó, một số nội dung chưa được quy định cụ thể, một số nội dung không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới nên cần sửa đổi để tạo sự thống nhất và hiệu quả trong triển khai. Để Luật Quy hoạch (sửa đổi) phát huy tốt hiệu quả trong công tác quy hoạch đất nước, cần sửa đổi những điểm nào, thưa ông? Yếu tố quan trọng trước hết là làm rõ nội dung về quy hoạch tích hợp với yêu cầu về tính đồng bộ. Theo đó, có thể thực hiện quy hoạch tích hợp theo quy trình là quy hoạch cấp trên mang tính định hướng với các chỉ tiêu cụ thể, sau đó cấp dưới cụ thể hóa định hướng đó và đề xuất điều chỉnh những điểm chưa hợp lý (nếu có). Sau đó, cấp trên tổng hợp, tiếp thu và ấn định để cấp dưới triển khai. Cách làm này sẽ giải quyết tình trạng mâu thuẫn giữa các quy hoạch và có thể phê duyệt đồng thời hoặc lần lượt các quy hoạch. Bên cạnh đó, Luật Quy hoạch (sửa đổi) cần thể hiện rõ tính phân tầng trong quy hoạch giữa quy hoạch quốc gia và quy hoạch chuyên ngành theo hướng khẳng định “hệ thống quy hoạch quốc gia là định hướng chung, quy hoạch ngành được thực hiện theo định hướng quy hoạch quốc gia”. Tư vấn quy hoạch cũng là vấn đề cần quy định rõ tại Luật sửa đổi. Theo đó, để quy hoạch phát huy tiềm năng của vùng, lĩnh vực theo tầm nhìn dài hạn hàng chục, hàng trăm năm thì quy hoạch cần được thực hiện bởi nhân sự và đơn vị tư vấn có chuyên môn sâu và tầm nhìn chiến lược. Việc huy động được các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp thực hiện quy hoạch còn giúp tránh được tình trạng quy hoạch trở thành ý chí của những nhà lãnh đạo đương thời, dẫn đến tư duy nhiệm kỳ trong quy hoạch. Để làm được điều đó thì cơ quan tư vấn quy hoạch phải là đơn vị chuyên môn độc lập, lập quy hoạch dựa trên cơ sở khoa học, tính toán phân bổ nguồn lực theo định hướng phát triển hiệu quả và bền vững. Một điểm đáng lưu ý khác là quy hoạch ở cấp dưới phải được cấp trên phê duyệt để tạo sự thống nhất, đồng bộ và có tính liên kết giữa các quy hoạch. Chẳng hạn, quy hoạch tỉnh thì cần được Thủ tướng phê duyệt hoặc Thủ tướng ủy quyền cho một cơ quan có góc nhìn tổng thể để phê duyệt. Tuy nhiên, kế hoạch triển khai quy hoạch phải được phân cấp cho địa phương phê duyệt và thực hiện. Ở khía cạnh khác, cần đưa định hướng ưu tiên đầu tư trong quy hoạch thay cho danh mục dự án ưu tiên. Bởi lẽ, danh mục dự án ưu tiên là liệt kê dự án với quy mô, tính chất, điều kiện cụ thể nên không đảm bảo tầm nhìn tổng quát. Thay vào đó, việc đưa ra định hướng ưu tiên tại Luật sẽ có tính định hướng cho việc triển khai thành nhiều dự án cụ thể. Xin cảm ơn ông! Hà My (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 7/2025)

Tạo nền tảng cho kinh tế tăng tốc những tháng cuối năm

(khoahockiemtoan.vn) - Trong những tháng còn lại của năm 2024, kinh tế Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ biến động địa chính trị trên thị trường thế giới. Vì thế, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng trên những nền tảng đã có, nếu tận dụng tốt cơ hội và duy trì đà tăng trưởng thì Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế.   Những tháng đầu năm đã qua, bà đánh giá như thế nào về thực trạng kinh tế Việt Nam? Kinh tế Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thuận lợi đan xen với khó khăn, thách thức từ bối cảnh quốc tế với những biến động khó lường, phức tạp từ xung đột quân sự, biến động chính trị, bất ổn kéo dài tại một số quốc gia, khu vực. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam vẫn đạt những kết quả quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2024 tăng trưởng tích cực, với tốc độ tăng ước đạt 6,93% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 7,99% của quý II/2022 trong các quý II của giai đoạn 2020-2023. GDP 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,42%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 6,58% của sáu tháng đầu năm 2022 trong giai đoạn 2020-2024. Qua 7 tháng đầu năm 2024, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát khi bình quân 7 tháng năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 4,12% so với cùng kỳ năm trước và lạm phát cơ bản tăng 2,73%. Đáng lưu ý, việc điều chỉnh lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang từ 01/7/2024 chưa gây áp lực đáng kể đối với diễn biến giá cả trong tháng 7. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của cải cách và hội nhập kinh tế. Các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển vùng, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng suất lao động, phát triển các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn) đã giúp thúc đẩy các ngành kinh tế tăng trưởng. Chẳng hạn, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 7 tháng năm 2024 ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 7 tiếp tục duy trì ở mức 54,7, bằng với tháng trước đó. Du lịch cũng có sự phục hồi tích cực khi khách quốc tế đến nước ta đạt gần 10 triệu lượt người, còn số khách du lịch trong nước cũng đạt 79,5 triệu lượt. Hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra sôi động. Tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 18 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong 7 tháng đầu năm đạt 12,55 tỷ USD, tăng 8,4%. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài duy trì niềm tin và sự lạc quan với thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 440,45 tỷ USD, tăng 17,2% trong 7 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 14,53 tỷ USD. Hơn nữa, khu vực kinh tế trong nước đã đạt tăng trưởng xuất khẩu cao hơn so với khu vực đầu tư nước ngoài, cho thấy năng lực thích ứng và tận dụng cơ hội của cộng đồng doanh nghiệp trong nước. Cùng những kết quả đạt được, xin bà cho biết cụ thể hơn về những khó khăn và thách thức từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế? Triển vọng kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, bất định. Một số nền kinh tế chủ chốt giữ lãi suất điều hành ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát. Cạnh tranh chiến lược về khoa học, công nghệ, thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc, vẫn diễn ra gay gắt, phức tạp. Thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu tiềm ẩn rủi ro tác động đến nguồn cung và giá cả lương thực, hàng hóa thế giới… Nhiều thị trường quốc tế đã gia tăng quy định nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, phát triển các chuỗi giá trị giảm phát thải các-bon. Không ít thị trường gia tăng các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, khả năng thâm nhập của hàng Việt Nam xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng. Việt Nam cũng cần lưu tâm hơn ở một số lĩnh vực, quy định trong nước. Chẳng hạn, cải cách môi trường kinh doanh chưa tương xứng với những kỳ vọng đặt ra, giải ngân tín dụng tương đối chậm; chi phí của một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào chịu áp lực tăng tạo áp lực lên lạm phát. Đáng lưu ý, tác động từ tăng lương cơ sở và tăng lương tối thiểu vùng có thể gây ra lạm phát “chi phí đẩy” nếu không theo dõi, đánh giá sát và có giải pháp kịp thời, đồng bộ. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng nhanh hơn số doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng đầu năm. Trong khi đó, dù đã có nhiều giải pháp chính sách, năng suất lao động chưa được cải thiện ở mức tương xứng. Khả năng kết nối giữa khối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn chậm được cải thiện, qua đó ảnh hưởng đến khả năng đóng góp và hưởng lợi từ xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Nhận thức và năng lực chuyển đổi của doanh nghiệp để thích ứng với các xu hướng mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh còn tương đối hạn chế. Đâu sẽ là nền tảng để nền kinh tế Việt Nam chống chịu với những khó khăn nêu trên, thưa bà? Những kết quả khả quan về kinh tế - xã hội những tháng đầu năm là cơ sở để Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp gia tăng nỗ lực hơn trong các tháng cuối năm. Cần tiếp tục duy trì khung chính sách bài bản về nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế để mở rộng không gian phát triển cho cộng đồng doanh nghiệp, cải thiện năng suất lao động, bảo đảm các cân đối lớn và bảo đảm an sinh xã hội. Cần lưu ý, Việt Nam cũng đã có những nền tảng quan trọng từ “đổi mới tư duy”. Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo tháo gỡ không ít rào cản về mặt thể chế, chính sách nhằm mở rộng không gian kinh tế, giảm chi phí không cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các quy hoạch được phê duyệt đã lồng ghép những tư duy mới, gắn với phát triển các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh có sự gắn kết tương hỗ với nhau và đều ưu tiên thực hiện khẩn trương. Nhờ đó, Việt Nam đang được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tư duy cải cách. Xin thông tin thêm, với vai trò đại diện của Việt Nam (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tại Ủy ban Kinh tế APEC, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đang chủ trì, phối hợp với các đối tác xây dựng chương trình cải cách cơ cấu mới cho APEC giai đoạn 2026-2030. Trên nền tảng ấy, nếu tận dụng tốt cơ hội từ đà phục hồi của kinh tế thế giới và theo dõi, xử lý hiệu quả các khó khăn, bất định từ bên ngoài, Việt Nam có thể hoàn thành vượt mức mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024. Bà khuyến nghị như thế nào để nền kinh tế nước ta tiếp tục có những bước phát triển hiệu quả trong thời gian tới? Việt Nam cần quyết liệt hơn trong cải cách thể chế kinh tế, qua đó giúp phát huy hiệu quả tối đa nội lực của nền kinh tế, để nền kinh tế vươn mình tận dụng những thời cơ phát triển mới. Cần nhấn mạnh, thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng. Việt Nam cần cân nhắc một số định hướng chính sách nhằm “làm mới” động lực cải cách thể chế, tạo thuận lợi và tăng giá trị cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như đẩy nhanh cải cách môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính; hoàn thiện thể chế liên kết vùng, nhằm tạo động lực cho liên kết giữa các địa phương và doanh nghiệp ở các địa phương theo tư duy chuỗi giá trị để “cùng đổi mới, cùng liên kết, cùng hợp tác, cùng thắng, cùng phát triển”. Song song với đó là rà soát, hoàn thiện khung chính sách để mở rộng không gian phát triển cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, kinh tế sáng tạo… Cùng với đó cần tập trung tháo gỡ các khó khăn về tiếp cận các thị trường xuất khẩu, đẩy nhanh tạo thuận lợi thương mại, khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA), tìm kiếm và khai thác hiệu quả các thị trường ngách, kể cả thông qua nền tảng số hóa và thử nghiệm phát triển khu thương mại tự do. Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách cải thiện năng suất lao động, gắn với tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới; đồng thời thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang khu vực doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, cần tiếp tục theo dõi, đánh giá, dự báo sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước với các kịch bản đủ chi tiết, tính đến những rủi ro chiến tranh thương mại, gia tăng phòng vệ ở các thị trường xuất khẩu, xu hướng dịch chuyển đầu tư nước ngoài... để kiến nghị phương án, giải pháp phù hợp, qua đó củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn và tạo nền tảng quan trọng cho cải cách, hội nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Xin trân trọng cảm ơn bà! Hương Dịu (thực hiện)

Thị trường tài chính có thể dễ thở hơn trong năm 2024

TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế, nguyên Chuyên gia kinh tế trưởng quốc gia ở Việt Nam của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cho rằng, thị trường tài chính toàn cầu nói chung và thị trường tài chính Việt Nam có thể “dễ thở” hơn trong năm 2024, trong đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể sẽ ghi nhận một số kết quả tích cực từ việc thực hiện cải cách trong thời gian qua. TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế Sau năm 2022 với nhiều chấn động trong lĩnh vực ngân hàng và thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 có những điểm nào đáng chú ý, thưa ông? Thị trường tài chính là một phần quan trọng của nền kinh tế, chịu ảnh hưởng bởi biến động của nền kinh tế và tác động trở lại nền kinh tế. Thị trường tài chính năm 2023 phản ánh đúng diễn biến của nền kinh tế. Có thể thấy rõ, từ cuối năm 2022 và cả năm 2023 đã xuất hiện sự khác biệt về cách thức điều hành chính sách tài chính của các nước. Cụ thể, về chính sách tiền tệ, Việt Nam và một số nước châu Á có xu hướng đi ngược với các nước phát triển. Sự khác biệt về định hướng điều hành chính sách tiền tệ đã tạo ra khoảng cách lớn về lãi suất/ tỷ giá giữa các đồng tiền, từ đó tác động ngược lại với toàn bộ thị trường tài chính. Đặc biệt, đồng VND và nhiều đồng tiền khác giảm giá so với USD.  Riêng với Việt Nam, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có diễn biến bất ổn trong năm qua khiến kênh huy động vốn quan trọng này của thị trường tài chính bị gián đoạn. Đặc biệt, trái phiếu doanh nghiệp bất động sản phát hành riêng lẻ gần như đóng băng sau sự sôi động của năm 2022. Sự gián đoạn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp gây áp lực gia tăng cho thị trường ngân hàng trong việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp. Đáng chú ý, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đã ở mức gần 130% - con số quá lớn theo cảnh báo của WB và ADB - có thể gây rủi ro về kỳ hạn do nguồn vốn huy động ngắn hạn từ kênh tín dụng lại phải cung cấp vốn trung và dài hạn. Trong khi đó, nợ xấu của hệ thống ngân hàng đang tăng, đã có lúc tác động bất lợi đến thanh khoản khiến dư địa giảm lãi suất không còn. Sau giai đoạn thiếu hụt thanh khoản cuối năm 2022, hệ thống ngân hàng lại ở tình trạng thừa thanh khoản do nền kinh tế không hấp thụ được vốn, Ngân hàng Nhà nước phải dùng một số biện pháp nghiệp vụ để hút tiền về trong hệ thống, giảm sức ép chênh lệch lãi suất giữa VND và USD. Nhìn chung, hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ nói chung đã hầu như hết dư địa, nhưng lại được trao cho quá nhiều nhiệm vụ và đang rơi vào tình trạng quá tải. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa thật sự phục hồi sau các vụ việc trong năm 2022 không hỗ trợ được nhiều cho nền kinh tế dẫn đến sức ép lại càng dồn lên hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, chính sách tài khóa vẫn còn dư địa thì lại quá rụt rè. Việc cắt giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% thực hiện nhỏ giọt 6 tháng một lần, và không phải với tất cả các mặt hàng, tạo ra sức ép cho bộ máy thực hiện, làm chậm tính hiệu quả của việc cắt giảm VAT. Nguồn vốn đầu tư công giải ngân - được coi là kênh hỗ trợ nguồn lực tốt khi thị trường tín dụng gặp khó - lại giải ngân chậm, không hiệu quả. Có thể khái quát bức tranh tổng thể thị trường tài chính năm 2023 là sự tắc nghẽn về vốn rất lớn trong hệ thống ngân hàng, cho dù lãi suất đã giảm vì sức hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu. Trong khi đó, yếu tố kích thích để khai thông vốn là chính sách tài khóa, và đầu tư công lại vận hành quá rụt rè và không hiệu quả. Nhiều giải pháp đã được thực thi để giải quyết các ách tắc về vốn cho nền kinh tế trong năm qua. Theo ông, các giải pháp đó có hiệu quả như thế nào? Với thực tế như vậy, một giải pháp được thực thi là tiếp tục cải cách để tăng hiệu quả hoạt động của thị trường. Trong đó, giải pháp nổi bật đã thực hiện là cải cách quy định với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bằng việc ban hành nghị định 65/2022/NĐ-CP về trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ. Các nội dung định hướng sửa đổi trong văn bản đó là rất tốt/phù hợp/hỗ trợ cho sự phát triển bền vững của thị trường, nổi bật là quy định về đánh giá xếp hạng tín nhiệm với doanh nghiệp phát hành và tăng điều kiện với nhà đầu tư cá nhân. Với hệ thống ngân hàng, quy định về tăng cường chất lượng quản trị hệ thống như giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn đã được thực thi cùng với nợ xấu ở mức cao khiến dòng vốn tín dụng vào nền kinh tế bị siết hơn. Do đó, đẩy mạnh cấp vốn cho nền kinh tế đồng thời phải đối phó với các rủi ro hiện hữu về chất lượng tài sản trong hệ thống và rủi ro vĩ mô như lạm phát, tỷ giá là một nhiệm vụ “gần như bất khả thi” với hệ thống ngân hàng. Đến nay, điều may mắn là thị trường tài chính toàn cầu đã “dễ thở” hơn với việc nhiều ngân hàng trung ương thể hiện quan điểm không tiếp tục tăng lãi suất. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đã hết rủi ro. Do đó, việc tiếp tục đẩy mạnh vốn tín dụng ra thị trường cũng cần cân nhắc và đảm bảo thực hiện các giải pháp kiểm soát rủi ro, tránh gây sức ép lên hệ thống ngân hàng vì sẽ tạo ra các rủi ro hệ thống trong tương lai. Sau những biến động của năm 2022 và năm 2023, theo ông, thị trường tài chính Việt Nam năm 2024 sẽ có những điểm nào đáng chú ý? Thị trường tài chính toàn cầu nói chung và thị trường tài chính Việt Nam có thể “dễ thở” hơn trong năm 2024 bởi gần như các ngân hàng trung ương sẽ không tăng lãi suất. Có thể nói, câu chuyện tăng lãi suất đã qua. Với thị trường ngân hàng Việt Nam, với nền kinh tế phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng thì triển vọng tăng trưởng năm 2024 sẽ là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng tín dụng ngân hàng. Triển vọng kinh tế thế giới năm 2024 sẽ là phục hồi chậm, thương mại toàn cầu tiếp tục giảm, sẽ tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu củaViêt Nam khiến triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tiếp tục khó khăn, ảnh hưởng đến tăng tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, chất lượng tài sản của ngân hàng cũng đang suy giảm với nợ xấu gia tăng, kể cả nợ xấu từ trái phiếu doanh nghiệp, sẽ làm tăng chi phí dự phòng của ngân hàng, và từ đó giảm lợi nhuận ngân hàng. Năm 2024, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể sẽ ghi nhận một số kết quả tích cực từ việc thực hiện cải cách trong thời gian qua, theo đó, thông tin về doanh nghiệp phát hành được minh bạch hơn, giới đầu tư sẽ “trưởng thành” và có sự chọn lọc hàng hóa tốt hơn. Tuy nhiên, những món nợ trái phiếu được gia hạn trong năm 2023 sẽ là mối lo và sẽ tác động bất lợi cho hoạt động của ngành ngân hàng trong năm 2024. Trân trọng cảm ơn ông! Thúy Hường (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 12/2023)

QUYẾT LIỆT THỰC THI CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIỮ VỮNG ĐÀ TĂNG TRƯỞNG

TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, cho rằng kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm có nhiều điểm sáng bất chấp kinh tế thế giới còn phục hồi chậm và không đồng đều. Dù vậy, nền kinh tế vẫn còn nhiều thách thức, cần các giải pháp điều hành quyết liệt và hiệu quả để giữ đà tăng trưởng trong thời gian tới. Dự báo, tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm có khả năng đạt 6,3% đến 6,8% và cả năm có thể đạt 6,3% đến 6,5%.           Ông đánh giá như thế nào về bức tranh kinh tế và hoạt động của các động lực tăng trưởng chủ đạo trong nửa đầu năm nay? Kinh tế Việt Nam trong quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đạt nhiều kết quả tích cực. Một số động lực tăng trưởng truyền thống cho thấy đà phục hồi khá đồng đều. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 368,53 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước. Thu hút và giải ngân FDI tiếp tục khởi sắc. Trong 6 tháng đầu năm, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 15,2 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ, giải ngân vốn FDI đạt 10,84 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 6 năm. Kết quả khả quan này khẳng định niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng tăng trưởng và cơ hội đến từ dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu đối với Việt Nam. Tiêu dùng tiếp tục đà phục hồi với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 6 tháng đầu năm 2024 tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh (8,8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 58,4% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2019). Đà phục hồi tích cực của bán lẻ cùng với tiêu dùng của khu vực nhà nước góp phần đưa tiêu dùng cuối cùng đóng góp cao nhất (64,26%) vào tăng trưởng GDP trong 6 tháng đầu năm. Giải ngân đầu tư công đạt kết quả khả quan dù không đồng đều và còn chậm, đầu tư tư nhân phục hồi. Tổng số vốn giải ngân trong 6 tháng đầu năm ước đạt 244,41 nghìn tỷ đồng, bằng 33,8% kế hoạch năm và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Dù đã đạt kết quả như vậy song diễn biến kinh tế thế giới vẫn chưa thuận lợi, theo ông, kinh tế Việt Nam trong thời gian tới có phải đối mặt với những rủi ro, thách thức nào, thưa ông? Trong thời gian tới, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số rủi ro, thách thức chính. Các rủi ro thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu như: khủng hoảng địa chính trị dai dẳng, khó đoán định đặc biệt xung đột tại Ukraina, Biển Đỏ, Trung Đông...; cạnh tranh chiến lược về thương mại và công nghệ giữa các nước lớn còn phức tạp, làm tăng phân mảnh và bảo hộ thương mại; lạm phát và lãi suất dù giảm song còn cao; rủi ro tài khóa và nợ ở mức cao, khiến kinh tế thế giới phục hồi còn chậm và thiếu bền vững; rủi ro an ninh năng lượng, lương thực và thiên tai, khí hậu cực đoan vẫn thường trực... Bên cạnh đó, một số động lực tăng trưởng truyền thống phục hồi nhưng chưa đồng đều, còn ở mức thấp so với trước dịch và chưa bền vững. Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ (loại trừ yếu tố giá tăng 5,7% chỉ bằng khoảng 66% mức tăng trung bình của cùng kỳ giai đoạn trước dịch 2018-2019 (8,6%); lượng khách du lịch quốc tế tăng mạnh (58,4%) nhưng doanh thu lưu trú - ăn uống và du lịch lữ hành trong 6 tháng đầu năm 2024 chỉ tăng 14,8%, thấp hơn mức trước dịch, cho thấy xu hướng tiêu dùng tiết kiệm của du khách. Tiêu dùng cuối cùng tăng 5,78%, cao hơn cùng kỳ các năm 2020-2023 song vẫn thấp hơn mức trước dịch (6 tháng đầu năm 2019 tăng 7,05%). Đầu tư tư nhân tăng 6,7%, cao hơn mức 2,1% cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn nhiều mức tăng 17% cùng kỳ giai đoạn trước dịch 2018-2019 và thấp hơn khu vực FDI (10,3%). Mặt khác, hoạt động doanh nghiệp còn nhiều khó khăn dù đã có dấu hiệu khởi sắc: trong 6 tháng đầu năm 2024, số doanh nghiệp gia nhập thị trường đạt gần 120 nghìn doanh nghiệp, cao hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (110 nghìn doanh nghiệp) là tín hiệu tích cực, tuy nhiên số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vẫn tăng 18,6% so với cùng kỳ do các vướng mắc về pháp lý chưa được giải quyết kịp thời (đặc biệt là thị trường đất đai, bất động sản); áp lực tài chính (áp lực đáo hạn nợ vay và nợ trái phiếu doanh nghiệp) và chi phí đầu vào vẫn ở mức cao (chi phí logistics tăng, giá năng lượng tăng...). Từ diễn biến như vậy, ông dự báo như thế nào về triển vọng kinh tế Việt Nam trong 6 tháng cuối năm nay? Trong bối cảnh quốc tế như nêu trên cùng với kết quả tăng trưởng khả quan của 6 tháng đầu năm, môi trường pháp lý ngày càng được hoàn thiện, các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, phát huy hiệu quả cao hơn; kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố; tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm có khả năng đạt 6,3% đến 6,8% và cả năm có thể đạt 6,3% đến 6,5% (kịch bản cơ sở), đạt cận trên mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra, hoặc có thể khả quan hơn, khoảng 6,5% đến 6,7% (kịch bản tích cực). Trong đó, tăng lương cơ sở có thể khiến GDP tăng thêm 0,3 điểm % đến 0,5 điểm %, lạm phát tăng thêm 0,2 điểm % đến 0,3 điểm % trong năm 2024 và có thể cao hơn trong năm 2025-2026. Về lạm phát, áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm 2024 dự báo sẽ ở mức cao hơn cùng kỳ năm 2023 do yếu tố chi phí đẩy và cầu kéo. Về chi phí đẩy, giá năng lượng, giá nguyên vật liệu, chi phí logistics còn ở mức cao; việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý như tiền điện, học phí, tăng lương cơ sở, lương tối thiểu vùng theo lộ trình từ ngày 01/7/2024… Về cầu kéo, cung tiền dự báo tăng cao hơn cùng với đà phục hồi kinh tế. Để đạt kết quả tăng trưởng cao nhất, cần thực hiện những giải pháp gì, thưa ông? Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2024 như nêu trên, cần chú trọng một số giải pháp. Trước hết, cần đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung vào: quyết liệt ban hành và thực thi hiệu quả hơn các chính sách, giải pháp tháo gỡ các vướng mắc (nhất là về pháp lý, định giá đất, hoàn thuế giá trị gia tăng, tiếp cận vốn, phát triển nhà ở xã hội, phòng cháy chữa cháy...); triển khai có hiệu quả Nghị định 73/2023/NĐ-CP về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; kịp thời ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh bất động sản 2023, Luật Các tổ chức tín dụng 2024... chính thức có hiệu lực từ 01/8/2024, cũng như các đạo luật vừa được Quốc hội thông qua nhằm đảm bảo nhất quán, đồng bộ và hiệu lực thực thi; sớm ban hành khung pháp lý nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng như cơ chế thử nghiệm - Sandbox, cơ chế thí điểm, đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon, danh mục phân loại xanh, Quy hoạch điện VIII, cơ chế mua – bán điện trực tiếp (DDPA)... Đồng thời, phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống về xuất khẩu, đầu tư - nhất là đầu tư tư nhân, tiêu dùng; khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới từ kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng, liên kết vùng...; đẩy nhanh triển khai Quy hoạch điện VIII, cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp FDI khi Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu; quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, góp phần thu hút, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu kinh tế như Hà Nội, Cần Thơ, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh cao hơn cả nước và tăng tính lan tỏa với các vùng và cả nước; đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, sớm có phương án điều chuyển các cấu phần có tỷ lệ giải ngân thấp và bố trí ngân sách hỗ trợ phát triển các lĩnh vực mới, quan trọng như công nghệ cao, công nghiệp bán dẫn, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, phát triển thị trường tín chỉ carbon, nhà ở xã hội. Khải Anh

CẤP BÁCH ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Đổi mới doanh nghiệp nhà nước để đáp ứng bối cảnh mới đang là yêu cầu cấp bách đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Chuyên gia kinh tế - PGS.TS. Ngô Trí Long còn nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh để đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế.   Ông đánh giá như thế nào về vai trò của khối doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện nay? Tới nay, doanh nghiệp nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan trọng do Đảng và Nhà nước giao, thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần dẫn dắt, tạo động lực cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển. Đặc biệt, chúng ta có thể thấy rõ trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19, vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được phát huy, thể hiện rất rõ nét và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; vừa duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế vừa tích cực tham gia phòng, chống dịch bệnh với tinh thần trách nhiệm cao, phản ứng chính sách kịp thời, bám sát thực tiễn để tham mưu, đề xuất với Chính phủ tháo gỡ các ách tắc, vướng mắc cho doanh nghiệp, góp phần giải quyết khó khăn cho đất nước. Bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước đã và đang có những tác động ra sao tới doanh nghiệp nhà nước, thưa ông? Kinh tế nước ta đang có sự chuyển mình nhanh chóng từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số, Chính phủ đang thực hiện các chính sách cải cách mạnh mẽ để thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý tốt hơn các doanh nghiệp nhà nước… Hơn nữa, bối cảnh thế giới còn nhiều bất định với những biến động lớn về địa chính trị, khủng hoảng kinh tế và biến đổi khí hậu… ảnh hưởng sâu sắc đến chuỗi cung ứng và tạo sự cạnh tranh gay gắt.      Quá trình đổi mới và bối cảnh kinh tế như trên đang khiến các doanh nghiệp nhà nước đứng trước nhiều yêu cầu và thách thức để tiếp tục tồn tại và phát triển. Đó là doanh nghiệp nhà nước cần đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất và hiệu quả để cạnh tranh với khu vực tư nhân và thu hút đầu tư. Cùng với đó, cần đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ hiện đại và tự động hóa trong sản xuất và quản lý để tăng cường hiệu suất. Đặc biệt là phải chuyển đổi số, áp dụng chuyển đổi số trong quản lý và hoạt động kinh doanh để nâng cao khả năng thích ứng và cạnh tranh. Bên cạnh đó, trong bối cảnh thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp nhà nước phải  tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động tài chính và quản lý. Nghĩa là, cần có hệ thống báo cáo và kiểm soát tài chính minh bạch để xây dựng lòng tin từ cổ đông và công chúng. Khi thị trường quốc tế còn nhiều khó khăn thì các doanh nghiệp nhà nước phải đổi mới mô hình kinh doanh, tìm kiếm các mô hình kinh doanh mới, phù hợp với xu hướng thị trường và nhu cầu khách hàng, đồng thời đáp ứng các yêu cầu về phát triển bền vững, đảm bảo hoạt động kinh doanh, không chỉ mang lại lợi nhuận mà còn có trách nhiệm với môi trường và xã hội để thích ứng với các yêu cầu ngày càng cao của thị trường xuất nhập khẩu hiện nay. Theo ông, đâu là những khó khăn của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình thực hiện những yêu cầu trên? Vấn đề dễ nhận thấy nhất là khó khăn trong quản lý đổi mới do việc thay đổi thói quen làm việc và văn hóa tổ chức có thể gặp nhiều trở ngại từ phía lãnh đạo và nhân viên. Có thể những nhóm lợi ích trong doanh nghiệp nhà nước không đồng tình với những thay đổi hoặc gây khó khăn cho quá trình đổi mới. Nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn gặp phải vấn đề về quản lý và điều hành, dẫn đến lãng phí nguồn lực, hoạt động không hiệu quả, nhất là vấn đề nguồn nhân lực khi áp dụng những công nghệ mới. Hơn nữa, do những quy định pháp luật và mô hình kinh doanh nhiều đặc thù, không ít doanh nghiệp nhà nước có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế không ổn định. Thiếu nguồn lực đầu tư, nhất là việc thực hiện các chương trình đổi mới cần nguồn vốn lớn, nên nhiều doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn chịu sự cạnh tranh từ khu vực tư nhân và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), trong khi khối doanh nghiệp nhà nước phải chịu áp lực từ sự thay đổi trong chính sách quản lý; nhiều doanh nghiệp còn gặp áp lực từ cổ phần hóa, thoái vốn và tái cấu trúc nên có thể gây ra xáo trộn trong hoạt động. Để khắc phục và đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, xin ông cho biết cần những giải pháp như thế nào? Đổi mới doanh nghiệp nhà nước lâu nay không chỉ là cần thiết, mà còn là một nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế hiện đại. Dù một vài năm gần đây, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các bộ, cơ quan, doanh nghiệp, công tác đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã đạt được một số kết quả tích cực. Nhưng còn một số bất cập, hạn chế còn tồn tại nên cần phải có những giải pháp mới và tạo sự đột phá hơn. Nhìn lại việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước những năm qua thì thấy công tác này chủ yếu triển khai bề rộng, mới chỉ quan tâm tới việc giảm số lượng các doanh nghiệp nhà nước, chưa đi sâu vào giải quyết mục tiêu chính của tái cơ cấu. Hầu hết doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn chưa có sự thay đổi về chất, chủ yếu thay đổi về tên gọi, hình thức pháp lý như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - công ty con còn tồn tại nhiều yếu kém về tài chính, nhân lực, quản lý. Vì thế, công tác này thời gian tới cần xác định rõ ràng vai trò của doanh nghiệp nhà nước, rà soát và xác định định hướng của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, đảm bảo doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả, không chồng chéo với khu vực kinh tế tư nhân. Đồng thời, cần phân định rõ ngành, nghề mà Nhà nước cần nắm giữ. Phân định rõ những ngành nào Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, ngành nào cần nắm giữ cổ phần chi phối, ngành nào không cần. Thông qua đó, thu hẹp số lượng ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh cần có doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta chỉ nên tập trung hoạt động của doanh nghiệp nhà nước vào một số ngành, nghề, lĩnh vực đảm bảo lợi ích kinh tế quốc gia, quốc phòng, an ninh, dịch vụ công ích, kết cấu hạ tầng, khoa học công nghệ cao. Chính phủ cũng cần sớm ban hành đầy đủ các cơ chế, đặc biệt là các cơ chế xác định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, đơn vị đại diện có chức năng đến đâu, có quyền như thế nào cần được xác định và thể chế hóa. Qua đó tối ưu hóa nguồn lực, tập trung vào các lĩnh vực, ngành nghề có lợi thế cạnh tranh, giảm thiểu các hoạt động không hiệu quả. Ngoài ra, cần đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, hiệu quả, công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hướng thực chất và hiệu quả. Việc cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường. Nghiên cứu và sửa đổi những quy định không phù hợp đang cản trở quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó, trước hết, liên quan đến vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, chọn đối tác chiến lược, bán cổ phần ưu đãi cho người lao động, tăng tính xã hội ngay trong công ty cổ phần. Các doanh nghiệp nhà nước cũng cần tích cực đổi mới công nghệ, bởi đây là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả hoạt động, cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh mới. Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước nâng cao công nghệ, nhưng việc triển khai còn chậm và chưa đồng bộ. Do đó, các doanh nghiệp nhà nước cần tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D); tìm kiếm cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh… Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước cần nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, cũng như đảm bảo minh bạch trong hoạt động, tài chính của doanh nghiệp nhà nước để tạo sự tin tưởng từ cộng đồng. Trước những thách thức về cạnh tranh, các cơ quan quản lý nên khuyến khích các hình thức hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân để tăng cường hiệu quả đầu tư, chia sẻ rủi ro… Cũng như nên sử dụng các công cụ tiếp thị hiện đại để nâng cao khả năng tiếp cận và nhận diện thương hiệu; tìm kiếm và xây dựng các kênh phân phối mới để tăng trưởng doanh thu. Có thể thấy, đổi mới doanh nghiệp nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của riêng các doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng doanh nghiệp. Việc thực hiện các giải pháp trên sẽ giúp doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Để thành công trong quá trình đổi mới trong bối cảnh mới cần có sự quyết tâm cao từ Đảng, Nhà nước, Chính phủ và lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước.      Theo Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, đến nay, cả nước có 671 doanh nghiệp nhà nước bao gồm 6 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty nhà nước và 19 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con. Trong đó, tuy chỉ chiếm hơn 10% về số lượng, nhưng khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con lại có vai trò kinh tế quan trọng, nắm giữ 92% tổng tài sản và 90% tổng vốn chủ sở hữu, 93% tổng doanh thu và 85% tổng đóng góp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc. Lũy kế 9 tháng năm 2024, lợi nhuận trước thuế của 19 tập đoàn, tổng công ty ước đạt gần 85.887 tỷ đồng, bằng 105% kế hoạch năm. Xin cảm ơn ông! Hương Dịu (thực hiện)

Sửa toàn diện Luật Quy hoạch để đáp ứng nhu cầu phát triển mới

GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khoá 15, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng sau hơn 7 năm thực thi, Luật Quy hoạch năm 2017 (có hiệu lực từ đầu năm 2019) đã mang lại nhiều kết quả tích cực song cũng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất cập trong triển khai. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi toàn diện Luật tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 15 vào tháng 10/2025 là cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới. GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khoá XV, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Ông đánh giá như thế nào về việc thực hiện Luật Quy hoạch năm 2017? Phải khẳng định rằng Luật Quy hoạch ra đời là bước ngoặt quan trọng trong công tác quy hoạch của Việt Nam với điểm mấu chốt là xóa bỏ tình trạng TAÏP CHÍ NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC KIEÅM TOAÙN Số 213 | tháng 7/2025 | 59 quy hoạch trở thành “lãnh địa riêng”, thiếu sự liên thông, thậm chí là rào cản của quá trình phát triển của từng ngành, lĩnh vực. Luật Quy hoạch năm 2017 đặt yêu cầu về viêc lập quy hoạch tích hợp, bắt buộc các ngành, lĩnh vực phải phối hợp, liên kết với nhau để lập quy hoạch. Nhờ đó, số lượng quy hoạch từ cấp thấp đến cấp cao giảm đến 97%. Ở mỗi cấp điều hành chỉ có một quy hoạch duy nhất. Đây là bước tiến quan trọng, tạo ra bức tranh tổng thể, đồng bộ về quy hoạch. Luật Quy hoạch năm 2017 hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống quy hoạch quốc gia thống nhất, đồng bộ, đa ngành và liên kết vùng. Đây là một trong những đạo luật then chốt để thể chế hóa các chiến lược phát triển và điều phối không gian quốc gia một cách hiệu quả. Trước khi Luật Quy hoạch ra đời, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch gồm có 53 luật, 07 pháp lệnh, 62 nghị định (không kể các văn bản luật, pháp lệnh và nghị định được điều chỉnh, bổ sung), ngoài ra còn có một số luật, pháp lệnh và nghị định có quy định về chấp hành, thực hiện theo quy hoạch. Luật Quy hoạch năm 2017 đã tạo dựng hệ thống quy hoạch quốc gia thống nhất, góp phần thay đổi cơ bản tư duy, phương pháp và nội dung hoạt động quy hoạch theo hướng phù hợp hơn với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn chu trình chiến lược - quy hoạch - kế hoạch - đầu tư, tăng cường sự liên kết phát triển, đặc biệt là liên kết vùng, thúc đẩy các mục tiêu phát triển đất nước. Theo ông, đâu là những điểm hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai Luật Quy hoạch? Qua nhiều năm triển khai Luật Quy hoạch, công tác quy hoạch ngày càng đóng vai trò quan trọng, giúp Nhà nước hoạch định, kiến tạo các động lực phát triển mới; không gian phát triển quốc gia từng bước được tổ chức hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc. Việc triển khai công tác quy hoạch theo cách tiếp cận tổng hợp, đa ngành đã có sự thay đổi rõ rệt về tư duy, nhận thức và hành động của các ngành, các địa phương theo hướng chủ động phối hợp trong quá trình lập quy hoạch và tăng cường liên kết phát triển. Tuy nhiên, do lần đầu tiên triển khai Luật Quy hoạch với các nội dung mới nên vẫn còn nhiều điểm chưa đạt được đồng thuận, thiếu sự đồng bộ trong thực thi. Trong quá trình triển khai Luật Quy hoạch, nhiều địa phương, bộ, ngành đã gặp không ít vướng mắc do các quy định còn chưa rõ ràng, thiếu tính liên kết giữa các loại quy hoạch, hoặc chưa có cơ chế xử lý hiệu quả khi phát sinh xung đột giữa các quy hoạch cùng cấp hoặc khác cấp. Bên cạnh đó, một số nội dung chưa được quy định cụ thể, một số nội dung không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới nên cần sửa đổi để tạo sự thống nhất và hiệu quả trong triển khai. Để Luật Quy hoạch (sửa đổi) phát huy tốt hiệu quả trong công tác quy hoạch đất nước, cần sửa đổi những điểm nào, thưa ông? Yếu tố quan trọng trước hết là làm rõ nội dung về quy hoạch tích hợp với yêu cầu về tính đồng bộ. Theo đó, có thể thực hiện quy hoạch tích hợp theo quy trình là quy hoạch cấp trên mang tính định hướng với các chỉ tiêu cụ thể, sau đó cấp dưới cụ thể hóa định hướng đó và đề xuất điều chỉnh những điểm chưa hợp lý (nếu có). Sau đó, cấp trên tổng hợp, tiếp thu và ấn định để cấp dưới triển khai. Cách làm này sẽ giải quyết tình trạng mâu thuẫn giữa các quy hoạch và có thể phê duyệt đồng thời hoặc lần lượt các quy hoạch. Bên cạnh đó, Luật Quy hoạch (sửa đổi) cần thể hiện rõ tính phân tầng trong quy hoạch giữa quy hoạch quốc gia và quy hoạch chuyên ngành theo hướng khẳng định “hệ thống quy hoạch quốc gia là định hướng chung, quy hoạch ngành được thực hiện theo định hướng quy hoạch quốc gia”. Tư vấn quy hoạch cũng là vấn đề cần quy định rõ tại Luật sửa đổi. Theo đó, để quy hoạch phát huy tiềm năng của vùng, lĩnh vực theo tầm nhìn dài hạn hàng chục, hàng trăm năm thì quy hoạch cần được thực hiện bởi nhân sự và đơn vị tư vấn có chuyên môn sâu và tầm nhìn chiến lược. Việc huy động được các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp thực hiện quy hoạch còn giúp tránh được tình trạng quy hoạch trở thành ý chí của những nhà lãnh đạo đương thời, dẫn đến tư duy nhiệm kỳ trong quy hoạch. Để làm được điều đó thì cơ quan tư vấn quy hoạch phải là đơn vị chuyên môn độc lập, lập quy hoạch dựa trên cơ sở khoa học, tính toán phân bổ nguồn lực theo định hướng phát triển hiệu quả và bền vững. Một điểm đáng lưu ý khác là quy hoạch ở cấp dưới phải được cấp trên phê duyệt để tạo sự thống nhất, đồng bộ và có tính liên kết giữa các quy hoạch. Chẳng hạn, quy hoạch tỉnh thì cần được Thủ tướng phê duyệt hoặc Thủ tướng ủy quyền cho một cơ quan có góc nhìn tổng thể để phê duyệt. Tuy nhiên, kế hoạch triển khai quy hoạch phải được phân cấp cho địa phương phê duyệt và thực hiện. Ở khía cạnh khác, cần đưa định hướng ưu tiên đầu tư trong quy hoạch thay cho danh mục dự án ưu tiên. Bởi lẽ, danh mục dự án ưu tiên là liệt kê dự án với quy mô, tính chất, điều kiện cụ thể nên không đảm bảo tầm nhìn tổng quát. Thay vào đó, việc đưa ra định hướng ưu tiên tại Luật sẽ có tính định hướng cho việc triển khai thành nhiều dự án cụ thể. Xin cảm ơn ông! Hà My (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 7/2025)

Việt Nam hướng tới nước thu nhập cao: Vai trò then chốt của thể chế và khu vực tư nhân

Trong bối cảnh kinh tế - thương mại toàn cầu nhiều biến động, Việt Nam đang đặt mục tiêu đầy tham vọng trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. Theo Chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Phạm Thế Anh - Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân), để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần một chiến lược cải cách toàn diện, tập trung vào hoàn thiện thể chế, cải thiện hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô, thúc đẩy vai trò của khu vực tư nhân và đặc biệt là nâng cao chất lượng thực thi chính sách - điểm hạn chế suốt nhiều năm qua. PGS.TS. Phạm Thế Anh Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân) Ông đánh giá thế nào về thực trạng nền kinh tế hiện nay và những thách thức chính mà nước ta phải đối mặt trên con đường trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045? Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế ấn tượng trong hơn ba thập kỷ qua, với tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,73%/năm và thu nhập bình quân đầu người từ 80 USD/người năm 1990 vươn lên mạnh mẽ đạt 4.700 USD/người năm 2024 theo thông tin từ Ngân hàng Thế giới (WB). Hơn nữa, trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam đã và đang lựa chọn mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu. Nếu như vào đầu những năm 1990, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong GDP của Việt Nam chỉ khoảng dưới 30%, thì con số này đã tăng lên trên 50% vào những năm 2000 và trên 80% trong những năm gần đây, để từ đó trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở thương mại lớn nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong cả giai đoạn 1991-2024 là khoảng 17%/năm. Việt Nam còn tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện một loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với các đối tác kinh tế quan trọng, được kỳ vọng sẽ làm thay đổi toàn diện kinh tế Việt Nam trong thập kỷ tới. Cùng với đó, các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, cải thiện môi trường kinh doanh... tiếp tục được thực hiện để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết vấn đề việc làm và phục vụ mục tiêu xuất khẩu của đất nước. Những năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã được cải thiện nhưng vẫn tồn tại những rủi ro và thách thức nhất định. Nhìn vào những con số và thực tế nền kinh tế thì thấy, tốc độ tăng trưởng GDP đang có xu hướng giảm dần qua các thời kỳ, từ 7,41% trong giai đoạn 1990-1999, xuống còn 7,27% trong giai đoạn 2000-2009, 6,3% trong giai đoạn 2010-2019 và 5,14% kể từ năm 2020 đến nay. Nguyên nhân do mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và xuất khẩu đang chạm ngưỡng do năng suất biên của vốn giảm dần. Ngoài ra, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến, chế tạo hướng ra xuất khẩu cũng đang gặp thách thức lớn khi căng thẳng thương mại gia tăng trên toàn cầu. Các nước có xu hướng áp đặt thuế quan và các rào cản thương mại khiến những quốc gia có độ mở thương mại và đầu tư lớn như Việt Nam trở nên dễ bị tổn thương hơn. Ông có thể phân tích sâu hơn về những bất cập trong chính sách tài khóa và tiền tệ, cũng như hướng cải thiện? Khác với nhiều nền kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của Việt Nam đang phải “gánh” đa mục tiêu, cùng với kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị tiền đồng, đôi khi chính sách này còn phải hỗ trợ tăng trưởng thông qua các kênh thúc đẩy/định hướng tín dụng và hỗ trợ lãi suất, thậm chí là “hỗ trợ” cho chính sách tài khóa trong việc phát hành trái phiếu chính phủ. Điều này dẫn đến thông điệp chính sách thiếu nhất quán, gây tâm lý bất an cho nhà đầu tư và người dân. Để cải thiện, theo tôi, cần tăng cường tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước, được toàn quyền theo đuổi mục tiêu lạm phát (khoảng 3% - 4%) và ổn định tỷ giá mà không chịu chi phối từ các yêu cầu ngắn hạn của Chính phủ, như ưu tiên tăng trưởng tín dụng. Ngoài ra, việc can thiệp tiền tệ hiện nay còn mang nặng tính hành chính, đôi khi không tuân theo quy luật thị trường. Công cụ chính sách tiền tệ có tác động thực sự tới thị trường lại là “hạn mức tăng trưởng tín dụng” - mang nặng tính “xin - cho” giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng. Chất lượng tín dụng và đích đến của dòng vốn còn chưa hiệu quả, tiến độ triển khai các chuẩn mực quốc tế về an toàn hệ thống ngân hàng còn chậm, nợ xấu có nguy cơ gia tăng và khó xử lý. Tất cả điều này tạo thêm thách thức cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, nên cần những thay đổi và cải thiện hiệu quả hơn. Về chính sách tài khóa, sự bất hợp lý thể hiện ở cơ cấu chi, với chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn, giải ngân đầu tư công chậm và tỷ lệ thu ngân sách/GDP đang ở mức khá cao. Điều này cho thấy, dư địa tài khóa dành cho hàng loạt các dự án đầu tư quy mô lớn là rất hạn chế, đòi hỏi phải có nguồn thu mới bền vững và tái cơ cấu chi tiêu hiệu quả hơn. Theo đó, Việt Nam cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp quan trọng, cần thu hẹp đáng kể chi thường xuyên của bộ máy nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, tinh giản biên chế và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi kém hiệu quả sẽ tiết kiệm được một lượng vốn lớn, có thể tái phân bổ cho đầu tư phát triển hạ tầng. Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống. Chẳng hạn, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi bởi nhiều lợi ích mà sắc thuế này có thể đem lại. Với xu hướng chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang dẫn dắt bởi đầu tư công, ông nhận thấy đâu là những vấn đề còn gây thách thức? Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP cao, ít nhất là 8% cho năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo, nhằm đưa nền kinh tế từ một nước thu nhập trung bình hiện nay trở thành một nước thu nhập cao vào năm 2045. Vì thế, Việt Nam đang có xu hướng chuyển sang mô hình tăng trưởng dẫn dắt bởi đầu tư công trong bối cảnh căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng. Tuy nhiên, điều này cần các chính sách đồng bộ để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thực hiện sự dịch chuyển hợp lý giữa các khoản chi và khai thác các nguồn thu mới bền vững thay thế cho các nguồn thu kém bền vững hoặc đang làm giảm động lực sản xuất và tiêu dùng. Nếu không làm được, việc tăng mạnh chi tiêu công rất dễ khiến nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nguy cơ thâm hụt ngân sách cao, bất ổn vĩ mô và thậm chí rơi vào khủng hoảng. Thêm vào đó, với dư địa chính sách tiền tệ hạn chế và tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao, việc cố gắng mở rộng tiền tệ để kích thích đầu tư có thể gây ra lạm phát và bong bóng giá tài sản, tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, khiến dòng vốn không đi vào sản xuất và làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô. Do vậy, Việt Nam phải chọn lọc được các dự án đầu tư công một cách hiệu quả, chủ yếu là các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế đang phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao. Ngoài ra, Việt Nam cần khắc phục tình trạng giải ngân đầu tư công chậm, sử dụng chính sách thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Việt Nam cũng cần phải khuyến khích được khu vực tư nhân tham gia các dự án công - tư (PPP) để tận dụng hiệu quả quản lý và công nghệ của họ. Trong các định hướng về phát triển kinh tế bền vững, ông đánh giá thế nào về vai trò của khu vực tư nhân? Khu vực tư nhân Việt Nam đang đóng góp một tỷ trọng lớn trong GDP, thu ngân sách nhà nước, cũng như sử dụng lao động, nhưng tiềm năng còn lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, khu vực này còn gặp không ít khó khăn, chẳng hạn như khó tiếp cận vốn, thiếu liên kết với doanh nghiệp FDI, môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập… Vừa qua, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành các nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, với việc xác định đây là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Vì thế, các cơ quan liên quan cần chuyển các nghị quyết thành hành động cụ thể, bằng các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp tư nhân được hưởng thụ, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Cũng về doanh nghiệp, hiện nước ta đang duy trì một số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nhiều lĩnh vực, kể cả những ngành mà sự tham gia của Nhà nước là không cần thiết. Thực trạng này đặt ra nhiều thách thức khi nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực quốc gia. Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn thoái vốn khỏi các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, không cần thiết, để dành nguồn lực đầu tư vào các dự án trọng điểm quốc gia mang tính động lực, có khả năng tạo ra giá trị kinh tế và xã hội cao hơn. Bên cạnh đó, nguồn thu từ việc thoái vốn cũng có thể được sử dụng để tham gia cùng các doanh nghiệp tư nhân vào các dự án trọng điểm thông qua hợp tác công - tư (PPP). Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa chủ trương và thực thi chính sách nhằm đảm bảo các giải pháp kinh tế vĩ mô được triển khai hiệu quả, thưa ông? Khoảng cách giữa chủ trương và thực thi là nhược điểm lâu nay của Việt Nam. Chủ trương thì đúng, nhưng khi triển khai cụ thể thì thiếu sự chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Nhiều chính sách đưa ra rất hợp lý nhưng khi thực hiện lại gặp nhiều vướng mắc, dẫn đến hiệu lực không cao. Do vậy, điều cần thiết bây giờ là tập trung tháo gỡ những nút thắt trong quá trình thực thi để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, thay vì chỉ dừng lại trên giấy tờ hay trong các văn bản chỉ đạo. Việc thực thi cần được theo dõi sát sao hơn, đó là cần có một bộ phận chuyên trách để giám sát, phản ứng nhanh, tiếp nhận thông tin phản ánh từ doanh nghiệp và người dân. Các phản ánh này phải được tổng hợp định kỳ, để nắm bắt kịp thời những vướng mắc, rủi ro trong quá trình triển khai. Trên cơ sở đó, Nhà nước cần đưa ra phản ứng chính sách nhanh chóng, kịp thời, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan, từng bộ phận có trách nhiệm giải quyết. Cùng với đó là cần đẩy mạnh cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường tính minh bạch, dễ dự đoán của chính sách để doanh nghiệp an tâm đầu tư dài hạn. Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông! Hương Dịu (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 6/2025)