Trong bối cảnh kinh tế - thương mại toàn cầu nhiều biến động, Việt Nam đang đặt mục tiêu đầy tham vọng trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. Theo Chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Phạm Thế Anh - Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân), để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần một chiến lược cải cách toàn diện, tập trung vào hoàn thiện thể chế, cải thiện hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô, thúc đẩy vai trò của khu vực tư nhân và đặc biệt là nâng cao chất lượng thực thi chính sách - điểm hạn chế suốt nhiều năm qua.

PGS.TS. Phạm Thế Anh
Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân) Ông đánh giá thế nào về thực trạng nền kinh tế hiện nay và những thách thức chính mà nước ta phải đối mặt trên con đường trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045?
Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế ấn tượng trong hơn ba thập kỷ qua, với tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,73%/năm và thu nhập bình quân đầu người từ 80 USD/người năm 1990 vươn lên mạnh mẽ đạt 4.700 USD/người năm 2024 theo thông tin từ Ngân hàng Thế giới (WB).
Hơn nữa, trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam đã và đang lựa chọn mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu. Nếu như vào đầu những năm 1990, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong GDP của Việt Nam chỉ khoảng dưới 30%, thì con số này đã tăng lên trên 50% vào những năm 2000 và trên 80% trong những năm gần đây, để từ đó trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở thương mại lớn nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong cả giai đoạn 1991-2024 là khoảng 17%/năm.
Việt Nam còn tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện một loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với các đối tác kinh tế quan trọng, được kỳ vọng sẽ làm thay đổi toàn diện kinh tế Việt Nam trong thập kỷ tới. Cùng với đó, các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, cải thiện môi trường kinh doanh... tiếp tục được thực hiện để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết vấn đề việc làm và phục vụ mục tiêu xuất khẩu của đất nước.
Những năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã được cải thiện nhưng vẫn tồn tại những rủi ro và thách thức nhất định. Nhìn vào những con số và thực tế nền kinh tế thì thấy, tốc độ tăng trưởng GDP đang có xu hướng giảm dần qua các thời kỳ, từ 7,41% trong giai đoạn 1990-1999, xuống còn 7,27% trong giai đoạn 2000-2009, 6,3% trong giai đoạn 2010-2019 và 5,14% kể từ năm 2020 đến nay.
Nguyên nhân do mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và xuất khẩu đang chạm ngưỡng do năng suất biên của vốn giảm dần. Ngoài ra, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến, chế tạo hướng ra xuất khẩu cũng đang gặp thách thức lớn khi căng thẳng thương mại gia tăng trên toàn cầu. Các nước có xu hướng áp đặt thuế quan và các rào cản thương mại khiến những quốc gia có độ mở thương mại và đầu tư lớn như Việt Nam trở nên dễ bị tổn thương hơn.
Ông có thể phân tích sâu hơn về những bất cập trong chính sách tài khóa và tiền tệ, cũng như hướng cải thiện?
Khác với nhiều nền kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của Việt Nam đang phải “gánh” đa mục tiêu, cùng với kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị tiền đồng, đôi khi chính sách này còn phải hỗ trợ tăng trưởng thông qua các kênh thúc đẩy/định hướng tín dụng và hỗ trợ lãi suất, thậm chí là “hỗ trợ” cho chính sách tài khóa trong việc phát hành trái phiếu chính phủ.
Điều này dẫn đến thông điệp chính sách thiếu nhất quán, gây tâm lý bất an cho nhà đầu tư và người dân. Để cải thiện, theo tôi, cần tăng cường tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước, được toàn quyền theo đuổi mục tiêu lạm phát (khoảng 3% - 4%) và ổn định tỷ giá mà không chịu chi phối từ các yêu cầu ngắn hạn của Chính phủ, như ưu tiên tăng trưởng tín dụng.
Ngoài ra, việc can thiệp tiền tệ hiện nay còn mang nặng tính hành chính, đôi khi không tuân theo quy luật thị trường. Công cụ chính sách tiền tệ có tác động thực sự tới thị trường lại là “hạn mức tăng trưởng tín dụng” - mang nặng tính “xin - cho” giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng. Chất lượng tín dụng và đích đến của dòng vốn còn chưa hiệu quả, tiến độ triển khai các chuẩn mực quốc tế về an toàn hệ thống ngân hàng còn chậm, nợ xấu có nguy cơ gia tăng và khó xử lý. Tất cả điều này tạo thêm thách thức cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, nên cần những thay đổi và cải thiện hiệu quả hơn.
Về chính sách tài khóa, sự bất hợp lý thể hiện ở cơ cấu chi, với chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn, giải ngân đầu tư công chậm và tỷ lệ thu ngân sách/GDP đang ở mức khá cao. Điều này cho thấy, dư địa tài khóa dành cho hàng loạt các dự án đầu tư quy mô lớn là rất hạn chế, đòi hỏi phải có nguồn thu mới bền vững và tái cơ cấu chi tiêu hiệu quả hơn.

Theo đó, Việt Nam cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp quan trọng, cần thu hẹp đáng kể chi thường xuyên của bộ máy nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, tinh giản biên chế và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi kém hiệu quả sẽ tiết kiệm được một lượng vốn lớn, có thể tái phân bổ cho đầu tư phát triển hạ tầng. Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống. Chẳng hạn, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi bởi nhiều lợi ích mà sắc thuế này có thể đem lại.
Với xu hướng chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang dẫn dắt bởi đầu tư công, ông nhận thấy đâu là những vấn đề còn gây thách thức?
Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP cao, ít nhất là 8% cho năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo, nhằm đưa nền kinh tế từ một nước thu nhập trung bình hiện nay trở thành một nước thu nhập cao vào năm 2045. Vì thế, Việt Nam đang có xu hướng chuyển sang mô hình tăng trưởng dẫn dắt bởi đầu tư công trong bối cảnh căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng.
Tuy nhiên, điều này cần các chính sách đồng bộ để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thực hiện sự dịch chuyển hợp lý giữa các khoản chi và khai thác các nguồn thu mới bền vững thay thế cho các nguồn thu kém bền vững hoặc đang làm giảm động lực sản xuất và tiêu dùng. Nếu không làm được, việc tăng mạnh chi tiêu công rất dễ khiến nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nguy cơ thâm hụt ngân sách cao, bất ổn vĩ mô và thậm chí rơi vào khủng hoảng. Thêm vào đó, với dư địa chính sách tiền tệ hạn chế và tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao, việc cố gắng mở rộng tiền tệ để kích thích đầu tư có thể gây ra lạm phát và bong bóng giá tài sản, tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, khiến dòng vốn không đi vào sản xuất và làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô.
Do vậy, Việt Nam phải chọn lọc được các dự án đầu tư công một cách hiệu quả, chủ yếu là các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế đang phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao. Ngoài ra, Việt Nam cần khắc phục tình trạng giải ngân đầu tư công chậm, sử dụng chính sách thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Việt Nam cũng cần phải khuyến khích được khu vực tư nhân tham gia các dự án công - tư (PPP) để tận dụng hiệu quả quản lý và công nghệ của họ.
Trong các định hướng về phát triển kinh tế bền vững, ông đánh giá thế nào về vai trò của khu vực tư nhân?
Khu vực tư nhân Việt Nam đang đóng góp một tỷ trọng lớn trong GDP, thu ngân sách nhà nước, cũng như sử dụng lao động, nhưng tiềm năng còn lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, khu vực này còn gặp không ít khó khăn, chẳng hạn như khó tiếp cận vốn, thiếu liên kết với doanh nghiệp FDI, môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập…
Vừa qua, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành các nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, với việc xác định đây là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Vì thế, các cơ quan liên quan cần chuyển các nghị quyết thành hành động cụ thể, bằng các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp tư nhân được hưởng thụ, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Cũng về doanh nghiệp, hiện nước ta đang duy trì một số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nhiều lĩnh vực, kể cả những ngành mà sự tham gia của Nhà nước là không cần thiết. Thực trạng này đặt ra nhiều thách thức khi nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực quốc gia. Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn thoái vốn khỏi các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, không cần thiết, để dành nguồn lực đầu tư vào các dự án trọng điểm quốc gia mang tính động lực, có khả năng tạo ra giá trị kinh tế và xã hội cao hơn. Bên cạnh đó, nguồn thu từ việc thoái vốn cũng có thể được sử dụng để tham gia cùng các doanh nghiệp tư nhân vào các dự án trọng điểm thông qua hợp tác công - tư (PPP).
Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa chủ trương và thực thi chính sách nhằm đảm bảo các giải pháp kinh tế vĩ mô được triển khai hiệu quả, thưa ông?
Khoảng cách giữa chủ trương và thực thi là nhược điểm lâu nay của Việt Nam. Chủ trương thì đúng, nhưng khi triển khai cụ thể thì thiếu sự chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Nhiều chính sách đưa ra rất hợp lý nhưng khi thực hiện lại gặp nhiều vướng mắc, dẫn đến hiệu lực không cao.
Do vậy, điều cần thiết bây giờ là tập trung tháo gỡ những nút thắt trong quá trình thực thi để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, thay vì chỉ dừng lại trên giấy tờ hay trong các văn bản chỉ đạo. Việc thực thi cần được theo dõi sát sao hơn, đó là cần có một bộ phận chuyên trách để giám sát, phản ứng nhanh, tiếp nhận thông tin phản ánh từ doanh nghiệp và người dân. Các phản ánh này phải được tổng hợp định kỳ, để nắm bắt kịp thời những vướng mắc, rủi ro trong quá trình triển khai. Trên cơ sở đó, Nhà nước cần đưa ra phản ứng chính sách nhanh chóng, kịp thời, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan, từng bộ phận có trách nhiệm giải quyết.
Cùng với đó là cần đẩy mạnh cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường tính minh bạch, dễ dự đoán của chính sách để doanh nghiệp an tâm đầu tư dài hạn.
Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông!
Hương Dịu (thực hiện)
(Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 6/2025)