Thứ ba, 16/9/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ ba, 16/9/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

CHUẨN MỰC KẾ TOÁN TOÀN CẦU- XU THẾ ĐI LÊN TẤT YẾU CỦA CÁC QUỐC GIA

(khoahockiemtoan.vn) - Bài viết này sẽ cố gắng chỉ ra tầm quan trọng của chuẩn mực kế toán toàn cầu và ảnh hưởng của nó trên thị trường toàn cầu, cũng như cung cấp những báo cáo tài chính có tính so sánh cao giúp các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định đúng đắn của mình

 

 I.        Lời nói đầu

Nếu như trước đây người ta nói rằng làm sao để Chuẩn mực kế toán áp dụng ở nước này mà vẫn có thể hòa hợp được ở nước khác. Điều đấy chứng tỏ là vẫn có nhiều sự khác biệt và chúng ta phải cố gắng dung hòa. Nói một cách hình tượng hơn, đó là sự cố gắng đưa các hệ thống chuẩn mực kế toán của các nước chạy song song với nhau. Với IFRS, đó là một sự cố gắng để các chuẩn mực giữa các nước tiến gần đến với nhau hơn theo một thông lệ chung, và đó chính là sự cần thiết phải ra đời của chuẩn mực kế toán toàn cầu.

Bài viết này sẽ cố gắng chỉ ra tầm quan trọng của chuẩn mực kế toán toàn cầu và ảnh hưởng của nó trên thị trường toàn cầu, cũng như cung cấp những báo cáo tài chính có tính so sánh cao giúp các nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định đúng đắn của mình. Bên cạnh đó, bài viết cũng tiến hành phân tích đánh giá để làm rõ sự khác nhau chủ yếu giữa hệ thống kế toán dựa trên các điều luật và hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc mà điển hình được áp dụng lần lượt tại Mỹ và Liên minh Châu Âu.

Từ đó bài viết sẽ phân tích nguyên nhân của sự tiến tới một chuẩn mực kế toán toàn cầu, bên cạnh đó đưa ra những lợi ích cũng như những trở ngại gặp phải trong quá trình dịch chuyển đến một chuẩn mực kế toán áp dụng chung (chuẩn mực kế toán toàn cầu).

Từ khóaChuẩn mực kế toán toàn cầu, chuẩn mực kế toán quốc tế, chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế,...

 

II.      Thực trạng môi trường kế toán hiện nay

Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (tên viết tắt là IFRS) được Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) biên soạn và ban hành nhằm hướng dẫn việc lập và trình bày báo cáo kế toán có tính thống nhất cao và được sử dụng rộng rãi khắp thế giới. Mục đích của việc tiêu chuẩn hóa này là để giúp tạo ra sự phù hợp đối với quá trình chuẩn bị lập báo cáo tài chính trong một môi trường toàn cầu. Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS) ngày nay được rất nhiều quốc gia trên toàn thế giới áp dụng, tính đến thời điểm cuối năm 2008 (27/8/2008) đã có hơn 100 quốc gia bao gồm Úc, Singapo, Thổ Nhĩ Kỳ,... và toàn bộ các quốc gia trong khối liên minh Châu Âu. Bên cạnh đó cũng có nhiều quốc gia đang trong quá trình chuẩn bị thông qua bộ chuẩn mực IFRS nhưng vẫn chưa được chuyển tiếp một cách hoàn toàn triệt để. Canada, Nga và Hoa Kỳ thì vẫn còn trong giai đoạn chuẩn bị để tiến tới áp dụng  IFRS. Canada và Nga hy vọng rằng việc này sẽ có hiệu lực vào năm 2011, trong khi đó Hoa Kỳ lại cho rằng các yêu cầu của họ sẽ được đáp ứng và sẽ có hiệu lực vào năm 2014.

Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (tên viết tắt US SEC) mà trong đó bao gồm hơn 110 công ty lớn nhất tại Mỹ (chiếm khoảng 14% lượng vốn tại thị trường Mỹ) đã đồng ý cho phép  sớm thông qua bộ tiêu chuẩn này. Các công ty này có thể bắt đầu áp dụng bộ chuẩn mực IFRS vào đầu những năm 2010. Tuy nhiên Ủy ban chứng khoán Mỹ đã đồng ý cho việc áp dụng chuẩn mực này vào năm 2011 để đảm bảo cho quyết định cuối cùng của họ là liệu xem có sự thay đổi nào nữa không đối với đại đa số các công ty lớn tại Mỹ.

Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ đã xác định 7 dấu hiệu quan trọng có thể ảnh hưởng đến quyết định của họ  trong việc liệu có nên tiến tới áp dụng chuẩn mực IFRS hay không. Và đó là:

-          Việc sử dụng sớm một cách có hạn chế bộ chuẩn mực IFRS;

-          Những sự điều chỉnh cho phù hợp  trong các nội dung và phương pháp của IFRS;

-          Trách nhiệm giải trình và sự hỗ trợ từ Ủy ban sáng lập chuẩn mực kế toán Quốc tế;

-          Nâng cao khả năng sử dụng  dữ liệu có sự ảnh hưởng lẫn nhau trong báo cáo IFRS;

-          Đào tạo và hướng dẫn thực hành các nội dung của chuẩn mực IFRS;

-          Dự đoán trước tương lai của IFRS;

-          Sự thi hành một cách có hiệu lực đối với việc sử dụng một cách bắt buộc  IFRS.

 

III.      Chuẩn mực kế toán toàn cầu (GAS)

1.       Sự khác nhau giữa nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi tại Mỹ (US GAAP) và Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS).

Mục tiêu của các báo cáo tài chính là đưa ra các thông tin tài chính liên quan và có độ tin cậy cao về tình hình tài chính, về kết quả kinh doanh của công ty để giúp các nhà đầu tư đưa ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động đầu tư của mình. Các vụ bê bối xảy ra tại Mỹ mà đặc biệt là vụ sụp đổ của hai tập đoàn lớn là Enron và Worldcom như là hồi chuông cảnh tỉnh đối với các nhà đầu tư, bên cạnh đó cũng đặt ra cho Ủy ban chứng khoán Mỹ (SEC) và Ủy ban chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) những thách thức nhất định, câu hỏi đặt ra cho SEC và FASB là liệu hệ thống kế toán hiện tại có đủ đáp ứng để hoàn thành nhiệm vụ của mình trong việc cung cấp những thông tin kế toán liên quan và đáng tin cậy hay không? Hệ thống kế toán của Mỹ hiện nay đang được tiến hành theo bộ chuẩn mực bao gồm các nguyên tắc kế toán được chấp nhận một cách rộng rãi (tên viết tắt là GAAP), tuy nhiên trước những tình hình cấp bách đang xảy ra, đòi hỏi Mỹ cũng đang từng bước tìm hiểu để áp dụng đối với chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), đó chính là chuẩn mực kế toán quốc tế (GAS).

Điều này đã gây ra những cuộc thảo luận và tranh cãi giữa các bên, và vấn đề đặt ra là hệ thống kế toán dựa trên các điều luật hay hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc sẽ đem lại một báo cáo tài chính có giá trị nhất. Hệ thống kế toán Hoa Kỳ bắt đầu và được biết đến với hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc, tuy nhiên sau đó do sức ép từ các kế toán viên và kiểm toán viên chuyên nghiệp yêu cầu là phải có hướng dẫn cụ thể hơn nữa đối với các vấn đề kế toán gặp phải trong quá trình hoạt động, chính điều đó đã cho thấy những bất cập tồn tại trong hệ thống kế toán dựa trên các điều luật. Và ngay lập tức Ủy ban chuẩn mực kế toán tài chính Hòa Kỳ đã có những động thái nhằm thỏa hiệp với các tổ chức có lợi ích lớn trong vấn đề này để ngăn chặn việc họ chuyển hướng trong việc sử dụng bộ tiểu chuẩn IFRS. Và IFRS tất nhiên là hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc.

Đối với một hệ thống kế toán dựa trên các điều luật thì các công ty khi sử dụng hệ thống kế toán này có thể thao túng và chi phối tình hình tài chính của họ bằng cách chú ý và kiểm soát các loại hình giao dịch xảy ra phục vụ cho lợi ích cá nhân của họ thay vì để các giao dịch xảy ra một cách tư nhiên miễn sao họ có thể được đáp ứng các yêu cầu cụ thể mang tính chắc chắn. Chính vì điều này mà họ luôn tìm mọi cách che đậy những thông tin tài chính bất lợi cho họ (ví dụ như nợ xấu của công ty) để thuyết phục các nhà đầu tư hay các kiểm toán viên trong quá trình tìm hiểu thông tin về công ty. Cái bất cập lớn nhất đối với hệ thống kế toán này đó là họ có thể thao túng các quy định về luật để đưa ra các thông tin tài chính theo một cách sai lệch.

Khác với hệ thống kế toán dựa vào các điều luật, hệ thống kế toán dựa vào các nguyên tắc sẽ không có các quy định cụ thể trong việc xác định chi tiết các giao dịch xảy ra. Thay vào đó, hệ thống kế toán này đưa ra các mục tiêu của nguyên tắc và từ đó yêu cầu các kế toán viên phải áp dụng các nguyên tắc đó để trình bày các thông tin tài chính một cách chính xác và chân thật nhất.

Một ưu điểm khác nữa của hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc đó là sự linh hoạt vốn có của nó trong quá trình ứng dụng. Trong khi hệ thộng kế toán dựa trên các điều luật phải cố gắng xác định mỗi khả năng có thế xẩy ra, tuy nhiên nó không được trang bị một cách đầy đủ để giải quyết các vấn đề mới nổi lên hoặc những tình huống mới. Bên cạnh đó, hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc, với các nguyên tắc bao quát rộng có thể đưa ra sự hướng dẫn về các tình huống đang tồn tại, cũng như việc áp dụng các vấn đề kế toán đang thay đổi hoặc mới xuất hiện.

Điều trở ngại chính của hệ thống kế toán dựa trên các điều luật hiện nay đó là sự phức tạp của các quy định. Và đối với một công ty khi mà lần đầu tiên đang gặp phải vấn đề vướng mắc liên quan đến kế toán thì khả năng để đưa ra một quyết định cuối cùng đối với nhà quản lý có thể gặp một vài khó khăn. Với hệ thống cấp bậc của GAAP và toàn bộ các mức độ khác nhau của lý thuyết trong hệ thống kế toán này, đây thực sự là một sự khó khăn và mất nhiều thời gian để tìm ra những quy định hợp lý và có thể tin cậy vì chưa có bất kỳ một lời tuyên bố chính thức nào từ các nhà làm luật là sẽ sửa đổi các quy định này cho phù hợp với các tình huống cụ thể của công ty. Ngược lại, với hệ thống kế toán dựa trên các quy tắc, việc hướng dẫn sử dụng có phần ít phức tạp và dễ sử dụng hơn. Các kế toán viên không cần tìm hiểu các thông tin bằng cách thông qua một số lượng lớn những lời tuyến bố khác nhau để tìm ra một quy định cụ thể, nếu như họ hiểu được các quy tắc này một cách rõ ràng thì họ có thể áp dụng vào những tình huống cụ thể của họ.

                Thông qua các trường hợp xảy ra tại Mỹ, một số lượng lớn các nước hiện nay đã tận dụng những ưu điểm của hệ thống kế toán dựa trên luật đem lại nhưng cũng từng bước có hướng chuyển dịch sang việc áp dụng hệ thống kế toán dựa trên nguyên tắc hoặc các chuẩn mực kế toán quốc tế.

2.       Nguyên nhân dẫn đến sự dịch chuyển sang Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)

Với sự phát triển mạnh mẽ của thị trường vốn đã tác động mạnh đến quá trình hội nhập quốc tế về chuẩn mực kế toán. Nhằm đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập của hệ thống kế toán, năm 2001 Ủy ban chuẩn mực kế toán tài chính quốc tế (IASB) đã được thành lập dựa trên nền tảng của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) nhưng với một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và độc lập hơn. Mục tiêu của IASB là hình thành một hệ thống chuẩn mực kế toán phục vụ cho lợi ích chung, có chất lượng cao, dễ hiểu và có thể áp dụng trên toàn thế giới, cung cấp những thông tin tài chính rõ ràng, chính xác và có thể so sánh giúp các nhà đầu tư đưa ra các quyết định cuối cùng một cách đúng đắn.

Hiện nay trên thế giới đã có khoảng 100 quốc gia áp dụng chuẩn mực IFRS. Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ và các bên liên quan cũng đang xem xét đến những lợi ích đem lại khi tham gia chung vào chuẩn mực kế toán quốc tế này. Vào khoảng thời gian 11 năm trước đây, một ý tưởng về làm thế nào để tạo ra sự hòa hợp giữa các chuẩn mực kế toán cũng đã được đem ra bàn luận nhưng cũng chưa đi đến đích cuối cùng. Nhưng ngày nay, với sự hội tụ đầy đủ về khả năng nhận thức, và chẳng bao lâu nữa, Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ cần đưa ra lộ trình trong việc cho phép hoặc yêu cầu các báo cáo tài chính của họ từng bước phải phù hợp với chuẩn mực IFRS.  

Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ và Ủy ban Liên minh Châu Âu hoàn toàn tán thành với ý tưởng làm sao để có hòa hợp giữa các bộ tiêu chuẩn có sự ảnh hưởng lớn đến các nhà đầu tư đó là bộ tiêu chuẩn US GAAP và IFRS. Trước đây các quốc gia thường có các quy định riêng cho mình trong việc áp dụng các chuẩn mực kế toán và gọi là các nguyên tắc kế toán được chấp nhận rộng rãi (GAAP), ví dụ ở Mỹ có US GAAP, ở Canada có Canada GAAP. Các nước cộng đồng chung Châu Âu cũng có những quy định chuẩn mực chung cho mình như IAS và sau này là IFRS. Chính điều này đã gây ra nhiều khó khăn bất cập cho các nhà đầu tư và các công ty đa quốc gia. Ví dụ như một công ty A được thành lập tại Châu Âu, nhưng lại đăng ký niêm yết tại Mỹ, khi đó công ty phải tiến hành chuyển đổi các báo cáo đang được lập theo chuẩn mực IFRS sang chuẩn mực US GAAP. Công việc này đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hoạt động kinh doanh của công ty, và công ty phải tốn không ít thời gian, công sức và chi phí để chuyển đổi các loại hình báo cáo tài chính cho phù hợp. Ví dụ tương tự đó là các công ty có công ty mẹ, công ty con khi mà công ty mẹ ở nước này nhưng công ty con ở các nước khác, việc hợp nhất báo cáo tài chính theo chuẩn mực của công ty mẹ cũng cần rất nhiều thời gian.

Chính điều này đã thúc đẩy các quốc gia đang sử dụng bộ chuẩn mực GAAP cần có kế hoạch thay đổi và hướng tới việc áp dụng chuẩn mực IFRS.

3.       Những lợi ích của việc ra đời chuẩn mực kế toán toàn cầu (GAS)

Các động thái nhằm hướng đến một bộ chuẩn mực kế toán toàn cầu đang được xúc tiến một cách mạnh mẽ bởi nhiều lý do. Sự hòa nhập của nền kinh tế thế giới đang xảy ra một cách nhanh chóng và chính thị trường quốc tế này đã giúp cho những người làm nghề kế toán xích lại gần với các chuẩn mực kế toán toàn cầu hơn. Với một sự bảo đảm mang tính chắc chắn như chiếc cầu nối từ Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) và hội đồng chuẩn mực kế toán tài chính (FASB) thì chuẩn mực kế toán quốc tế sẽ trở thành hiện thực trong một tương lai không xa. Một số lợi ích có thể thấy được của việc có một chuẩn mực kế toán quốc tế đối với thị trường toàn cầu ngày nay là:

Lợi ích đầu tiên phải kể đến đó là tạo ra sự tự do có thể so sánh được của các báo cáo tài chính. Hiện nay có nhiều cách thức khác nhau để sắp xếp và chuẩn bị các báo cáo tài chính. Một trong những trở ngại mà nhà đầu tư phải vượt qua đó là đưa ra các quyết định đầu tư khi mà các thông tin tài chính được báo cáo dưới nhiều hình thức khác nhau. Mỗi quốc gia có những yêu cầu riêng của mình và quy trình mà mỗi quốc gia đó phải tuân theo. Khi việc toàn cầu hóa các chuẩn mực kế toán xẩy ra sẽ gây ra một vài vấn đề khó khăn cho các nhà đầu tư nước ngoài vì việc xem xét các báo cáo tài chính được chuẩn bị dưới các chuẩn mực khác nhau sẽ là một thách thức lớn đối với họ.

Lợi ích thứ 2 mà chuẩn mực kiểm toán toàn cầu mang lại đó là làm giảm chi phí đầu tư ở các thị trường khác nhau. Lợi ích này có thể được nhận ra từ việc cắt giảm bớt công việc mà bình thường trước đây nhà đầu tư yêu cầu được xem lại hồ sơ ghi chép tài chính đối với thị trường nước ngoài. Các công ty đa quốc gia cũng có thể hợp lý hóa các loại báo cáo và giảm bớt các chi phí liên quan bằng cách  phát triển một hệ thống kế toán áp dụng chung. Các chi phí liên quan trong việc thiết kế lại các báo cáo kế toán khác nhau thành những báo cáo kế toán dễ đọc và dễ so sánh cho các nhà quản lý.

Lợi ích thứ 3 cũng dễ nhận ra đó là với việc sử dụng chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ tạo ra các hoạt động mang tính toàn cầu. Việc áp dụng các chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ làm tăng niềm tin cho các nhà đầu tư trên thị trường với điều kiện là chuẩn mực này phải được áp dụng một cách nghiêm ngặt bởi sự tuân thủ cao. Các công ty này có thể có đánh giá để tiến hành đầu tư, thiết lập các cơ sở sản xuất kinh doanh, các dự án hoặc thậm chí đầu tư vào các lĩnh vực mới tại nước ngoài.

4.       Những khó khăn gặp phải trong quá trình tiến tới một chuẩn mực kế toán toàn cầu (GAS)

Đối với những người theo chủ nghĩa hoài nghi thì họ tin rằng chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ rất là phức tạp vì nó còn liên quan đến các vấn đề thuộc về quy định và luật pháp tại các nước sở tại. Hơn thế nữa, chuẩn mực kế toán quốc tế cũng vừa mới ra đời nên vẫn còn trẻ và vẫn còn nhiều cơ hội để phát triển và hoàn thiện hơn. Cũng có nhiều câu hỏi được đặt ra trong vấn đề này đó là thực chất của quá trình xích lại gần nhau của GAAP và IFRS là như thế nào? Chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ là một sự kết hợp mang tính toàn diện hay là sự kết hợp bao gồm cả 2 hệ thống (hệ thống kế toán dựa trên các điều luật và hệ thống kế toán dựa trên các quy tắc) nhưng tách biệt nhau.

Một sự chấp nhận đối với một chuẩn mực kế toán dựa trên các nguyên tắc có nghĩa là đã cho nó một chỗ đứng qua việc làm hiểu rõ các nguyên tắc kế toán được áp dụng như thế nào. Chính điều này có thể chứa đựng những rủi ro tiềm tàng tạo ra sự không nhất quán đối với các báo cáo của các quốc gia. Trên thực tế, đây là một sự cản trở cho các quốc gia trong việc nỗ lực tham gia quá trình toàn cầu hóa này.

Ủy ban Châu Âu, một bộ phận điều hành của Khối liên minh Châu Âu trong lĩnh vực này cũng đã thành lập những bộ phận tư vấn như là một sự xác nhận của  IFRS. Eumedion, một diễn đàn về quản trị doanh nghiệp trong lĩnh vực đầu tư cũng bày tỏ những mỗi quan tâm của mình đối với việc chuyển đổi sang hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc này. Qua diễn đàn, cũng có nhiều ý kiến bày tỏ rằng sẽ có những rủi ro tiềm ẩn đó là các thông tin tiêu cực  sẽ không được chia sẻ với các thành viên của Ủy ban chuẩn mực kế toán quốc tế, và rút cục nó sẽ ảnh hưởng đến quá trình quản trị công ty. Diễn đàn cũng nhìn nhận và chỉ thẳng ra các vấn đề còn tồn tại như là thiếu tính khách quan, không có khả năng so sánh, thiếu các thông tin về địa lý và cuối cùng sự không nhất quán đối với các tiêu chí đo lường mà họ đã áp dụng.

Một mối quan tâm khác cũng được đưa ra thảo luận đó là ảnh hưởng của nó đến những người thuộc cộng đồng quốc gia Hồi giáo, nơi mà con người có thói quen là đặt niềm tin vào đồng tiền. Thời kỳ phát triển của nền tài chính Hồi giáo thường được biết đến là vào năm 1970 với sự ra đời hàng loạt các ngân hàng Hồi giáo tại Ả Rập và Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất. Nền tài chính của Hồi giáo phát triển được dựa trên nguồn gốc là luật Hồi giáo và Sharia. Sharia tuyên bố rằng không có khoảng cách nào giữa nhà thờ và nhà nước của họ, đó là một thế thống nhất.

Khi xem xét các vấn đề đã nêu trên có thế thấy rằng việc toàn cầu hóa đối với chuẩn mực kế toán sẽ xảy ra trong một tương lại không xa. Và mục tiêu của IFRS nhằm thúc đẩy các công ty đa quốc gia hoạt động với một một sự thống nhất cao và quyết liệt trong việc áp dụng các chuẩn mực kế toán.

 

IV.    Kết luận

Nếu như không quan tâm đến các tranh cãi xảy ra, một hệ thống kế toán toàn cầu luôn là mục tiêu của nhiều công ty lớn xuyên quốc gia. Trên thực tế, có nhiều quốc gia đã sẵn sàng tuân theo IFRS và một số quốc gia khác đã cam kết tuân thủ với chuẩn mực này trong một vài năm tiếp theo. Bài viết này cũng đã giúp các bạn hiểu được những nét chính giữa hệ thống kế toán dựa trên các điều luật (như là US GAAP) và hệ thống kế toán dựa trên các nguyên tắc (như là IFRS).  Chuẩn mực kế toán toàn cầu sẽ cho phép các nhà đầu tư cũng như các công ty lớn đưa ra các quyết định kinh doanh và đầu tư chính thức đúng đắn dựa trên các báo cáo tài chính. Mặc dù trong quá trình tiến tới chuẩn mực kế toán toàn cầu còn có nhiều trở ngại và thách thức đặt ra, nhưng hơn ai hết, với những lợi ích to lớn của nó mang lại, nó sẽ vượt qua những trở ngại đó và đi đến thành công, đó là việc hình thành nên chuẩn mực kế toán toàn cầu áp dụng chung cho tất cả các quốc gia trên toàn thế giới.

 

Tài liệu tham khảo

Mohamad Sepehri, “Global Accouning Standard”. Ph.D. Professor of Management &International Business,  Davis College of Business, Jacksonville University.

H.J Irvine, “The globalization of accounting standards: the case of the United Arab Emirates”, University of Wollongong.

Art Berknoits and Richard Reanpell (December 2, 2002), “The Accounting Debate: Principle vs. Rules”.

 Nicolas Véron, “Keeping the promise of Global Accounting Standards”, Peterson Institute for International Economics.

Gill, L. (2007, June), “IFRS: Coming to America. What CPAs need to know about the new global GAAP”, Journal of Accountancy.

Benston, G.B.(2006, June), “Principles-versus rules-based accounting standards: the FASB’s standard setting strategy”, Abacus.

 

NCS: Lê Doãn Hoài

Vụ Tổng hợp- Kiểm toán Nhà nước

Lượt xem: 1

Tạo nền tảng cho kinh tế tăng tốc những tháng cuối năm

(khoahockiemtoan.vn) - Trong những tháng còn lại của năm 2024, kinh tế Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ biến động địa chính trị trên thị trường thế giới. Vì thế, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng trên những nền tảng đã có, nếu tận dụng tốt cơ hội và duy trì đà tăng trưởng thì Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế.   Những tháng đầu năm đã qua, bà đánh giá như thế nào về thực trạng kinh tế Việt Nam? Kinh tế Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thuận lợi đan xen với khó khăn, thách thức từ bối cảnh quốc tế với những biến động khó lường, phức tạp từ xung đột quân sự, biến động chính trị, bất ổn kéo dài tại một số quốc gia, khu vực. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam vẫn đạt những kết quả quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2024 tăng trưởng tích cực, với tốc độ tăng ước đạt 6,93% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 7,99% của quý II/2022 trong các quý II của giai đoạn 2020-2023. GDP 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,42%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 6,58% của sáu tháng đầu năm 2022 trong giai đoạn 2020-2024. Qua 7 tháng đầu năm 2024, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát khi bình quân 7 tháng năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 4,12% so với cùng kỳ năm trước và lạm phát cơ bản tăng 2,73%. Đáng lưu ý, việc điều chỉnh lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang từ 01/7/2024 chưa gây áp lực đáng kể đối với diễn biến giá cả trong tháng 7. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của cải cách và hội nhập kinh tế. Các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển vùng, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng suất lao động, phát triển các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn) đã giúp thúc đẩy các ngành kinh tế tăng trưởng. Chẳng hạn, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 7 tháng năm 2024 ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 7 tiếp tục duy trì ở mức 54,7, bằng với tháng trước đó. Du lịch cũng có sự phục hồi tích cực khi khách quốc tế đến nước ta đạt gần 10 triệu lượt người, còn số khách du lịch trong nước cũng đạt 79,5 triệu lượt. Hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra sôi động. Tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 18 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong 7 tháng đầu năm đạt 12,55 tỷ USD, tăng 8,4%. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài duy trì niềm tin và sự lạc quan với thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 440,45 tỷ USD, tăng 17,2% trong 7 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 14,53 tỷ USD. Hơn nữa, khu vực kinh tế trong nước đã đạt tăng trưởng xuất khẩu cao hơn so với khu vực đầu tư nước ngoài, cho thấy năng lực thích ứng và tận dụng cơ hội của cộng đồng doanh nghiệp trong nước. Cùng những kết quả đạt được, xin bà cho biết cụ thể hơn về những khó khăn và thách thức từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế? Triển vọng kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, bất định. Một số nền kinh tế chủ chốt giữ lãi suất điều hành ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát. Cạnh tranh chiến lược về khoa học, công nghệ, thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc, vẫn diễn ra gay gắt, phức tạp. Thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu tiềm ẩn rủi ro tác động đến nguồn cung và giá cả lương thực, hàng hóa thế giới… Nhiều thị trường quốc tế đã gia tăng quy định nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, phát triển các chuỗi giá trị giảm phát thải các-bon. Không ít thị trường gia tăng các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, khả năng thâm nhập của hàng Việt Nam xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng. Việt Nam cũng cần lưu tâm hơn ở một số lĩnh vực, quy định trong nước. Chẳng hạn, cải cách môi trường kinh doanh chưa tương xứng với những kỳ vọng đặt ra, giải ngân tín dụng tương đối chậm; chi phí của một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào chịu áp lực tăng tạo áp lực lên lạm phát. Đáng lưu ý, tác động từ tăng lương cơ sở và tăng lương tối thiểu vùng có thể gây ra lạm phát “chi phí đẩy” nếu không theo dõi, đánh giá sát và có giải pháp kịp thời, đồng bộ. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng nhanh hơn số doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng đầu năm. Trong khi đó, dù đã có nhiều giải pháp chính sách, năng suất lao động chưa được cải thiện ở mức tương xứng. Khả năng kết nối giữa khối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn chậm được cải thiện, qua đó ảnh hưởng đến khả năng đóng góp và hưởng lợi từ xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Nhận thức và năng lực chuyển đổi của doanh nghiệp để thích ứng với các xu hướng mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh còn tương đối hạn chế. Đâu sẽ là nền tảng để nền kinh tế Việt Nam chống chịu với những khó khăn nêu trên, thưa bà? Những kết quả khả quan về kinh tế - xã hội những tháng đầu năm là cơ sở để Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp gia tăng nỗ lực hơn trong các tháng cuối năm. Cần tiếp tục duy trì khung chính sách bài bản về nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế để mở rộng không gian phát triển cho cộng đồng doanh nghiệp, cải thiện năng suất lao động, bảo đảm các cân đối lớn và bảo đảm an sinh xã hội. Cần lưu ý, Việt Nam cũng đã có những nền tảng quan trọng từ “đổi mới tư duy”. Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo tháo gỡ không ít rào cản về mặt thể chế, chính sách nhằm mở rộng không gian kinh tế, giảm chi phí không cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các quy hoạch được phê duyệt đã lồng ghép những tư duy mới, gắn với phát triển các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh có sự gắn kết tương hỗ với nhau và đều ưu tiên thực hiện khẩn trương. Nhờ đó, Việt Nam đang được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tư duy cải cách. Xin thông tin thêm, với vai trò đại diện của Việt Nam (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tại Ủy ban Kinh tế APEC, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đang chủ trì, phối hợp với các đối tác xây dựng chương trình cải cách cơ cấu mới cho APEC giai đoạn 2026-2030. Trên nền tảng ấy, nếu tận dụng tốt cơ hội từ đà phục hồi của kinh tế thế giới và theo dõi, xử lý hiệu quả các khó khăn, bất định từ bên ngoài, Việt Nam có thể hoàn thành vượt mức mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024. Bà khuyến nghị như thế nào để nền kinh tế nước ta tiếp tục có những bước phát triển hiệu quả trong thời gian tới? Việt Nam cần quyết liệt hơn trong cải cách thể chế kinh tế, qua đó giúp phát huy hiệu quả tối đa nội lực của nền kinh tế, để nền kinh tế vươn mình tận dụng những thời cơ phát triển mới. Cần nhấn mạnh, thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng. Việt Nam cần cân nhắc một số định hướng chính sách nhằm “làm mới” động lực cải cách thể chế, tạo thuận lợi và tăng giá trị cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như đẩy nhanh cải cách môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính; hoàn thiện thể chế liên kết vùng, nhằm tạo động lực cho liên kết giữa các địa phương và doanh nghiệp ở các địa phương theo tư duy chuỗi giá trị để “cùng đổi mới, cùng liên kết, cùng hợp tác, cùng thắng, cùng phát triển”. Song song với đó là rà soát, hoàn thiện khung chính sách để mở rộng không gian phát triển cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, kinh tế sáng tạo… Cùng với đó cần tập trung tháo gỡ các khó khăn về tiếp cận các thị trường xuất khẩu, đẩy nhanh tạo thuận lợi thương mại, khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA), tìm kiếm và khai thác hiệu quả các thị trường ngách, kể cả thông qua nền tảng số hóa và thử nghiệm phát triển khu thương mại tự do. Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách cải thiện năng suất lao động, gắn với tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới; đồng thời thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang khu vực doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, cần tiếp tục theo dõi, đánh giá, dự báo sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước với các kịch bản đủ chi tiết, tính đến những rủi ro chiến tranh thương mại, gia tăng phòng vệ ở các thị trường xuất khẩu, xu hướng dịch chuyển đầu tư nước ngoài... để kiến nghị phương án, giải pháp phù hợp, qua đó củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn và tạo nền tảng quan trọng cho cải cách, hội nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Xin trân trọng cảm ơn bà! Hương Dịu (thực hiện)

Thị trường tài chính có thể dễ thở hơn trong năm 2024

TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế, nguyên Chuyên gia kinh tế trưởng quốc gia ở Việt Nam của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) cho rằng, thị trường tài chính toàn cầu nói chung và thị trường tài chính Việt Nam có thể “dễ thở” hơn trong năm 2024, trong đó, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể sẽ ghi nhận một số kết quả tích cực từ việc thực hiện cải cách trong thời gian qua. TS. Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế Sau năm 2022 với nhiều chấn động trong lĩnh vực ngân hàng và thị trường trái phiếu doanh nghiệp, thị trường tài chính Việt Nam năm 2023 có những điểm nào đáng chú ý, thưa ông? Thị trường tài chính là một phần quan trọng của nền kinh tế, chịu ảnh hưởng bởi biến động của nền kinh tế và tác động trở lại nền kinh tế. Thị trường tài chính năm 2023 phản ánh đúng diễn biến của nền kinh tế. Có thể thấy rõ, từ cuối năm 2022 và cả năm 2023 đã xuất hiện sự khác biệt về cách thức điều hành chính sách tài chính của các nước. Cụ thể, về chính sách tiền tệ, Việt Nam và một số nước châu Á có xu hướng đi ngược với các nước phát triển. Sự khác biệt về định hướng điều hành chính sách tiền tệ đã tạo ra khoảng cách lớn về lãi suất/ tỷ giá giữa các đồng tiền, từ đó tác động ngược lại với toàn bộ thị trường tài chính. Đặc biệt, đồng VND và nhiều đồng tiền khác giảm giá so với USD.  Riêng với Việt Nam, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có diễn biến bất ổn trong năm qua khiến kênh huy động vốn quan trọng này của thị trường tài chính bị gián đoạn. Đặc biệt, trái phiếu doanh nghiệp bất động sản phát hành riêng lẻ gần như đóng băng sau sự sôi động của năm 2022. Sự gián đoạn của thị trường trái phiếu doanh nghiệp gây áp lực gia tăng cho thị trường ngân hàng trong việc cung cấp vốn cho doanh nghiệp. Đáng chú ý, tỷ lệ tín dụng/GDP của Việt Nam đã ở mức gần 130% - con số quá lớn theo cảnh báo của WB và ADB - có thể gây rủi ro về kỳ hạn do nguồn vốn huy động ngắn hạn từ kênh tín dụng lại phải cung cấp vốn trung và dài hạn. Trong khi đó, nợ xấu của hệ thống ngân hàng đang tăng, đã có lúc tác động bất lợi đến thanh khoản khiến dư địa giảm lãi suất không còn. Sau giai đoạn thiếu hụt thanh khoản cuối năm 2022, hệ thống ngân hàng lại ở tình trạng thừa thanh khoản do nền kinh tế không hấp thụ được vốn, Ngân hàng Nhà nước phải dùng một số biện pháp nghiệp vụ để hút tiền về trong hệ thống, giảm sức ép chênh lệch lãi suất giữa VND và USD. Nhìn chung, hệ thống ngân hàng và chính sách tiền tệ nói chung đã hầu như hết dư địa, nhưng lại được trao cho quá nhiều nhiệm vụ và đang rơi vào tình trạng quá tải. Thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn chưa thật sự phục hồi sau các vụ việc trong năm 2022 không hỗ trợ được nhiều cho nền kinh tế dẫn đến sức ép lại càng dồn lên hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, chính sách tài khóa vẫn còn dư địa thì lại quá rụt rè. Việc cắt giảm thuế VAT từ 10% xuống 8% thực hiện nhỏ giọt 6 tháng một lần, và không phải với tất cả các mặt hàng, tạo ra sức ép cho bộ máy thực hiện, làm chậm tính hiệu quả của việc cắt giảm VAT. Nguồn vốn đầu tư công giải ngân - được coi là kênh hỗ trợ nguồn lực tốt khi thị trường tín dụng gặp khó - lại giải ngân chậm, không hiệu quả. Có thể khái quát bức tranh tổng thể thị trường tài chính năm 2023 là sự tắc nghẽn về vốn rất lớn trong hệ thống ngân hàng, cho dù lãi suất đã giảm vì sức hấp thụ vốn của nền kinh tế yếu. Trong khi đó, yếu tố kích thích để khai thông vốn là chính sách tài khóa, và đầu tư công lại vận hành quá rụt rè và không hiệu quả. Nhiều giải pháp đã được thực thi để giải quyết các ách tắc về vốn cho nền kinh tế trong năm qua. Theo ông, các giải pháp đó có hiệu quả như thế nào? Với thực tế như vậy, một giải pháp được thực thi là tiếp tục cải cách để tăng hiệu quả hoạt động của thị trường. Trong đó, giải pháp nổi bật đã thực hiện là cải cách quy định với thị trường trái phiếu doanh nghiệp, bằng việc ban hành nghị định 65/2022/NĐ-CP về trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ. Các nội dung định hướng sửa đổi trong văn bản đó là rất tốt/phù hợp/hỗ trợ cho sự phát triển bền vững của thị trường, nổi bật là quy định về đánh giá xếp hạng tín nhiệm với doanh nghiệp phát hành và tăng điều kiện với nhà đầu tư cá nhân. Với hệ thống ngân hàng, quy định về tăng cường chất lượng quản trị hệ thống như giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn đã được thực thi cùng với nợ xấu ở mức cao khiến dòng vốn tín dụng vào nền kinh tế bị siết hơn. Do đó, đẩy mạnh cấp vốn cho nền kinh tế đồng thời phải đối phó với các rủi ro hiện hữu về chất lượng tài sản trong hệ thống và rủi ro vĩ mô như lạm phát, tỷ giá là một nhiệm vụ “gần như bất khả thi” với hệ thống ngân hàng. Đến nay, điều may mắn là thị trường tài chính toàn cầu đã “dễ thở” hơn với việc nhiều ngân hàng trung ương thể hiện quan điểm không tiếp tục tăng lãi suất. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là đã hết rủi ro. Do đó, việc tiếp tục đẩy mạnh vốn tín dụng ra thị trường cũng cần cân nhắc và đảm bảo thực hiện các giải pháp kiểm soát rủi ro, tránh gây sức ép lên hệ thống ngân hàng vì sẽ tạo ra các rủi ro hệ thống trong tương lai. Sau những biến động của năm 2022 và năm 2023, theo ông, thị trường tài chính Việt Nam năm 2024 sẽ có những điểm nào đáng chú ý? Thị trường tài chính toàn cầu nói chung và thị trường tài chính Việt Nam có thể “dễ thở” hơn trong năm 2024 bởi gần như các ngân hàng trung ương sẽ không tăng lãi suất. Có thể nói, câu chuyện tăng lãi suất đã qua. Với thị trường ngân hàng Việt Nam, với nền kinh tế phụ thuộc lớn vào tín dụng ngân hàng thì triển vọng tăng trưởng năm 2024 sẽ là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng tín dụng ngân hàng. Triển vọng kinh tế thế giới năm 2024 sẽ là phục hồi chậm, thương mại toàn cầu tiếp tục giảm, sẽ tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu củaViêt Nam khiến triển vọng kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tiếp tục khó khăn, ảnh hưởng đến tăng tín dụng ngân hàng. Ngoài ra, chất lượng tài sản của ngân hàng cũng đang suy giảm với nợ xấu gia tăng, kể cả nợ xấu từ trái phiếu doanh nghiệp, sẽ làm tăng chi phí dự phòng của ngân hàng, và từ đó giảm lợi nhuận ngân hàng. Năm 2024, thị trường trái phiếu doanh nghiệp có thể sẽ ghi nhận một số kết quả tích cực từ việc thực hiện cải cách trong thời gian qua, theo đó, thông tin về doanh nghiệp phát hành được minh bạch hơn, giới đầu tư sẽ “trưởng thành” và có sự chọn lọc hàng hóa tốt hơn. Tuy nhiên, những món nợ trái phiếu được gia hạn trong năm 2023 sẽ là mối lo và sẽ tác động bất lợi cho hoạt động của ngành ngân hàng trong năm 2024. Trân trọng cảm ơn ông! Thúy Hường (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 12/2023)

QUYẾT LIỆT THỰC THI CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ GIỮ VỮNG ĐÀ TĂNG TRƯỞNG

TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính – tiền tệ quốc gia, cho rằng kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm có nhiều điểm sáng bất chấp kinh tế thế giới còn phục hồi chậm và không đồng đều. Dù vậy, nền kinh tế vẫn còn nhiều thách thức, cần các giải pháp điều hành quyết liệt và hiệu quả để giữ đà tăng trưởng trong thời gian tới. Dự báo, tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm có khả năng đạt 6,3% đến 6,8% và cả năm có thể đạt 6,3% đến 6,5%.           Ông đánh giá như thế nào về bức tranh kinh tế và hoạt động của các động lực tăng trưởng chủ đạo trong nửa đầu năm nay? Kinh tế Việt Nam trong quý 2 và 6 tháng đầu năm 2024 đạt nhiều kết quả tích cực. Một số động lực tăng trưởng truyền thống cho thấy đà phục hồi khá đồng đều. Tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2024 ước đạt 368,53 tỷ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước. Thu hút và giải ngân FDI tiếp tục khởi sắc. Trong 6 tháng đầu năm, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam ước đạt 15,2 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ, giải ngân vốn FDI đạt 10,84 tỷ USD, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước, là mức tăng cao nhất so với cùng kỳ trong vòng 6 năm. Kết quả khả quan này khẳng định niềm tin của nhà đầu tư vào triển vọng tăng trưởng và cơ hội đến từ dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu đối với Việt Nam. Tiêu dùng tiếp tục đà phục hồi với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ trong 6 tháng đầu năm 2024 tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước nhờ lượng khách du lịch tăng mạnh (8,8 triệu lượt khách quốc tế, tăng 58,4% so với cùng kỳ năm 2023 và tăng 4,1% so với cùng kỳ năm 2019). Đà phục hồi tích cực của bán lẻ cùng với tiêu dùng của khu vực nhà nước góp phần đưa tiêu dùng cuối cùng đóng góp cao nhất (64,26%) vào tăng trưởng GDP trong 6 tháng đầu năm. Giải ngân đầu tư công đạt kết quả khả quan dù không đồng đều và còn chậm, đầu tư tư nhân phục hồi. Tổng số vốn giải ngân trong 6 tháng đầu năm ước đạt 244,41 nghìn tỷ đồng, bằng 33,8% kế hoạch năm và tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước. Dù đã đạt kết quả như vậy song diễn biến kinh tế thế giới vẫn chưa thuận lợi, theo ông, kinh tế Việt Nam trong thời gian tới có phải đối mặt với những rủi ro, thách thức nào, thưa ông? Trong thời gian tới, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với một số rủi ro, thách thức chính. Các rủi ro thách thức từ bên ngoài vẫn hiện hữu như: khủng hoảng địa chính trị dai dẳng, khó đoán định đặc biệt xung đột tại Ukraina, Biển Đỏ, Trung Đông...; cạnh tranh chiến lược về thương mại và công nghệ giữa các nước lớn còn phức tạp, làm tăng phân mảnh và bảo hộ thương mại; lạm phát và lãi suất dù giảm song còn cao; rủi ro tài khóa và nợ ở mức cao, khiến kinh tế thế giới phục hồi còn chậm và thiếu bền vững; rủi ro an ninh năng lượng, lương thực và thiên tai, khí hậu cực đoan vẫn thường trực... Bên cạnh đó, một số động lực tăng trưởng truyền thống phục hồi nhưng chưa đồng đều, còn ở mức thấp so với trước dịch và chưa bền vững. Tốc độ tăng tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ (loại trừ yếu tố giá tăng 5,7% chỉ bằng khoảng 66% mức tăng trung bình của cùng kỳ giai đoạn trước dịch 2018-2019 (8,6%); lượng khách du lịch quốc tế tăng mạnh (58,4%) nhưng doanh thu lưu trú - ăn uống và du lịch lữ hành trong 6 tháng đầu năm 2024 chỉ tăng 14,8%, thấp hơn mức trước dịch, cho thấy xu hướng tiêu dùng tiết kiệm của du khách. Tiêu dùng cuối cùng tăng 5,78%, cao hơn cùng kỳ các năm 2020-2023 song vẫn thấp hơn mức trước dịch (6 tháng đầu năm 2019 tăng 7,05%). Đầu tư tư nhân tăng 6,7%, cao hơn mức 2,1% cùng kỳ năm trước, nhưng thấp hơn nhiều mức tăng 17% cùng kỳ giai đoạn trước dịch 2018-2019 và thấp hơn khu vực FDI (10,3%). Mặt khác, hoạt động doanh nghiệp còn nhiều khó khăn dù đã có dấu hiệu khởi sắc: trong 6 tháng đầu năm 2024, số doanh nghiệp gia nhập thị trường đạt gần 120 nghìn doanh nghiệp, cao hơn số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường (110 nghìn doanh nghiệp) là tín hiệu tích cực, tuy nhiên số doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh có thời hạn vẫn tăng 18,6% so với cùng kỳ do các vướng mắc về pháp lý chưa được giải quyết kịp thời (đặc biệt là thị trường đất đai, bất động sản); áp lực tài chính (áp lực đáo hạn nợ vay và nợ trái phiếu doanh nghiệp) và chi phí đầu vào vẫn ở mức cao (chi phí logistics tăng, giá năng lượng tăng...). Từ diễn biến như vậy, ông dự báo như thế nào về triển vọng kinh tế Việt Nam trong 6 tháng cuối năm nay? Trong bối cảnh quốc tế như nêu trên cùng với kết quả tăng trưởng khả quan của 6 tháng đầu năm, môi trường pháp lý ngày càng được hoàn thiện, các động lực tăng trưởng (cả truyền thống và mới) được khai thác, phát huy hiệu quả cao hơn; kinh tế vĩ mô tiếp tục duy trì ổn định, các cân đối lớn được bảo đảm, niềm tin của doanh nghiệp và người dân được củng cố; tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng cuối năm có khả năng đạt 6,3% đến 6,8% và cả năm có thể đạt 6,3% đến 6,5% (kịch bản cơ sở), đạt cận trên mục tiêu do Quốc hội và Chính phủ đề ra, hoặc có thể khả quan hơn, khoảng 6,5% đến 6,7% (kịch bản tích cực). Trong đó, tăng lương cơ sở có thể khiến GDP tăng thêm 0,3 điểm % đến 0,5 điểm %, lạm phát tăng thêm 0,2 điểm % đến 0,3 điểm % trong năm 2024 và có thể cao hơn trong năm 2025-2026. Về lạm phát, áp lực lạm phát trong 6 tháng cuối năm 2024 dự báo sẽ ở mức cao hơn cùng kỳ năm 2023 do yếu tố chi phí đẩy và cầu kéo. Về chi phí đẩy, giá năng lượng, giá nguyên vật liệu, chi phí logistics còn ở mức cao; việc điều chỉnh giá các mặt hàng do Nhà nước quản lý như tiền điện, học phí, tăng lương cơ sở, lương tối thiểu vùng theo lộ trình từ ngày 01/7/2024… Về cầu kéo, cung tiền dự báo tăng cao hơn cùng với đà phục hồi kinh tế. Để đạt kết quả tăng trưởng cao nhất, cần thực hiện những giải pháp gì, thưa ông? Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô năm 2024 như nêu trên, cần chú trọng một số giải pháp. Trước hết, cần đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho thúc đẩy tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung vào: quyết liệt ban hành và thực thi hiệu quả hơn các chính sách, giải pháp tháo gỡ các vướng mắc (nhất là về pháp lý, định giá đất, hoàn thuế giá trị gia tăng, tiếp cận vốn, phát triển nhà ở xã hội, phòng cháy chữa cháy...); triển khai có hiệu quả Nghị định 73/2023/NĐ-CP về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; kịp thời ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn Luật Đất đai 2024, Luật Nhà ở 2023, Luật Kinh doanh bất động sản 2023, Luật Các tổ chức tín dụng 2024... chính thức có hiệu lực từ 01/8/2024, cũng như các đạo luật vừa được Quốc hội thông qua nhằm đảm bảo nhất quán, đồng bộ và hiệu lực thực thi; sớm ban hành khung pháp lý nhằm tạo điều kiện phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn và chuyển đổi năng lượng như cơ chế thử nghiệm - Sandbox, cơ chế thí điểm, đề án phát triển thị trường tín chỉ carbon, danh mục phân loại xanh, Quy hoạch điện VIII, cơ chế mua – bán điện trực tiếp (DDPA)... Đồng thời, phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống về xuất khẩu, đầu tư - nhất là đầu tư tư nhân, tiêu dùng; khai thác tốt hơn các động lực tăng trưởng mới từ kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng, liên kết vùng...; đẩy nhanh triển khai Quy hoạch điện VIII, cơ chế hỗ trợ các doanh nghiệp FDI khi Việt Nam áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu; quyết liệt cải thiện môi trường đầu tư - kinh doanh, góp phần thu hút, sử dụng hiệu quả vốn đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng của các đầu tàu kinh tế như Hà Nội, Cần Thơ, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh cao hơn cả nước và tăng tính lan tỏa với các vùng và cả nước; đẩy mạnh giải ngân đầu tư công, sớm có phương án điều chuyển các cấu phần có tỷ lệ giải ngân thấp và bố trí ngân sách hỗ trợ phát triển các lĩnh vực mới, quan trọng như công nghệ cao, công nghiệp bán dẫn, chuyển đổi xanh, chuyển đổi năng lượng, phát triển thị trường tín chỉ carbon, nhà ở xã hội. Khải Anh

CẤP BÁCH ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Đổi mới doanh nghiệp nhà nước để đáp ứng bối cảnh mới đang là yêu cầu cấp bách đối với sự phát triển của kinh tế Việt Nam. Chuyên gia kinh tế - PGS.TS. Ngô Trí Long còn nhấn mạnh đây là nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh để đóng vai trò trụ cột của nền kinh tế.   Ông đánh giá như thế nào về vai trò của khối doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện nay? Tới nay, doanh nghiệp nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, đóng góp lớn vào phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện các nhiệm vụ chính trị quan trọng do Đảng và Nhà nước giao, thể hiện vai trò nòng cốt trong một số ngành, lĩnh vực và tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà nước, góp phần dẫn dắt, tạo động lực cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước phát triển. Đặc biệt, chúng ta có thể thấy rõ trong giai đoạn dịch bệnh COVID-19, vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước đã được phát huy, thể hiện rất rõ nét và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao; vừa duy trì hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế vừa tích cực tham gia phòng, chống dịch bệnh với tinh thần trách nhiệm cao, phản ứng chính sách kịp thời, bám sát thực tiễn để tham mưu, đề xuất với Chính phủ tháo gỡ các ách tắc, vướng mắc cho doanh nghiệp, góp phần giải quyết khó khăn cho đất nước. Bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước đã và đang có những tác động ra sao tới doanh nghiệp nhà nước, thưa ông? Kinh tế nước ta đang có sự chuyển mình nhanh chóng từ nền kinh tế truyền thống sang nền kinh tế số, Chính phủ đang thực hiện các chính sách cải cách mạnh mẽ để thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý tốt hơn các doanh nghiệp nhà nước… Hơn nữa, bối cảnh thế giới còn nhiều bất định với những biến động lớn về địa chính trị, khủng hoảng kinh tế và biến đổi khí hậu… ảnh hưởng sâu sắc đến chuỗi cung ứng và tạo sự cạnh tranh gay gắt.      Quá trình đổi mới và bối cảnh kinh tế như trên đang khiến các doanh nghiệp nhà nước đứng trước nhiều yêu cầu và thách thức để tiếp tục tồn tại và phát triển. Đó là doanh nghiệp nhà nước cần đổi mới sáng tạo, cải thiện năng suất và hiệu quả để cạnh tranh với khu vực tư nhân và thu hút đầu tư. Cùng với đó, cần đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ hiện đại và tự động hóa trong sản xuất và quản lý để tăng cường hiệu suất. Đặc biệt là phải chuyển đổi số, áp dụng chuyển đổi số trong quản lý và hoạt động kinh doanh để nâng cao khả năng thích ứng và cạnh tranh. Bên cạnh đó, trong bối cảnh thu hút đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp nhà nước phải  tăng tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường tính minh bạch trong hoạt động tài chính và quản lý. Nghĩa là, cần có hệ thống báo cáo và kiểm soát tài chính minh bạch để xây dựng lòng tin từ cổ đông và công chúng. Khi thị trường quốc tế còn nhiều khó khăn thì các doanh nghiệp nhà nước phải đổi mới mô hình kinh doanh, tìm kiếm các mô hình kinh doanh mới, phù hợp với xu hướng thị trường và nhu cầu khách hàng, đồng thời đáp ứng các yêu cầu về phát triển bền vững, đảm bảo hoạt động kinh doanh, không chỉ mang lại lợi nhuận mà còn có trách nhiệm với môi trường và xã hội để thích ứng với các yêu cầu ngày càng cao của thị trường xuất nhập khẩu hiện nay. Theo ông, đâu là những khó khăn của các doanh nghiệp nhà nước trong quá trình thực hiện những yêu cầu trên? Vấn đề dễ nhận thấy nhất là khó khăn trong quản lý đổi mới do việc thay đổi thói quen làm việc và văn hóa tổ chức có thể gặp nhiều trở ngại từ phía lãnh đạo và nhân viên. Có thể những nhóm lợi ích trong doanh nghiệp nhà nước không đồng tình với những thay đổi hoặc gây khó khăn cho quá trình đổi mới. Nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn gặp phải vấn đề về quản lý và điều hành, dẫn đến lãng phí nguồn lực, hoạt động không hiệu quả, nhất là vấn đề nguồn nhân lực khi áp dụng những công nghệ mới. Hơn nữa, do những quy định pháp luật và mô hình kinh doanh nhiều đặc thù, không ít doanh nghiệp nhà nước có thể gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế không ổn định. Thiếu nguồn lực đầu tư, nhất là việc thực hiện các chương trình đổi mới cần nguồn vốn lớn, nên nhiều doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn. Hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước còn chịu sự cạnh tranh từ khu vực tư nhân và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), trong khi khối doanh nghiệp nhà nước phải chịu áp lực từ sự thay đổi trong chính sách quản lý; nhiều doanh nghiệp còn gặp áp lực từ cổ phần hóa, thoái vốn và tái cấu trúc nên có thể gây ra xáo trộn trong hoạt động. Để khắc phục và đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, xin ông cho biết cần những giải pháp như thế nào? Đổi mới doanh nghiệp nhà nước lâu nay không chỉ là cần thiết, mà còn là một nhiệm vụ chiến lược để đảm bảo sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế hiện đại. Dù một vài năm gần đây, với sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và nỗ lực của các bộ, cơ quan, doanh nghiệp, công tác đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước đã đạt được một số kết quả tích cực. Nhưng còn một số bất cập, hạn chế còn tồn tại nên cần phải có những giải pháp mới và tạo sự đột phá hơn. Nhìn lại việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước những năm qua thì thấy công tác này chủ yếu triển khai bề rộng, mới chỉ quan tâm tới việc giảm số lượng các doanh nghiệp nhà nước, chưa đi sâu vào giải quyết mục tiêu chính của tái cơ cấu. Hầu hết doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn chưa có sự thay đổi về chất, chủ yếu thay đổi về tên gọi, hình thức pháp lý như công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - công ty con còn tồn tại nhiều yếu kém về tài chính, nhân lực, quản lý. Vì thế, công tác này thời gian tới cần xác định rõ ràng vai trò của doanh nghiệp nhà nước, rà soát và xác định định hướng của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế, đảm bảo doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả, không chồng chéo với khu vực kinh tế tư nhân. Đồng thời, cần phân định rõ ngành, nghề mà Nhà nước cần nắm giữ. Phân định rõ những ngành nào Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn, ngành nào cần nắm giữ cổ phần chi phối, ngành nào không cần. Thông qua đó, thu hẹp số lượng ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh cần có doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta chỉ nên tập trung hoạt động của doanh nghiệp nhà nước vào một số ngành, nghề, lĩnh vực đảm bảo lợi ích kinh tế quốc gia, quốc phòng, an ninh, dịch vụ công ích, kết cấu hạ tầng, khoa học công nghệ cao. Chính phủ cũng cần sớm ban hành đầy đủ các cơ chế, đặc biệt là các cơ chế xác định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan quản lý đại diện vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước, đơn vị đại diện có chức năng đến đâu, có quyền như thế nào cần được xác định và thể chế hóa. Qua đó tối ưu hóa nguồn lực, tập trung vào các lĩnh vực, ngành nghề có lợi thế cạnh tranh, giảm thiểu các hoạt động không hiệu quả. Ngoài ra, cần đẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, hiệu quả, công khai, minh bạch; có cơ chế giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời những vi phạm trong quá trình triển khai thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo hướng thực chất và hiệu quả. Việc cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải dựa trên nguyên tắc kinh tế thị trường. Nghiên cứu và sửa đổi những quy định không phù hợp đang cản trở quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó, trước hết, liên quan đến vấn đề xác định giá trị doanh nghiệp, chọn đối tác chiến lược, bán cổ phần ưu đãi cho người lao động, tăng tính xã hội ngay trong công ty cổ phần. Các doanh nghiệp nhà nước cũng cần tích cực đổi mới công nghệ, bởi đây là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả hoạt động, cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững trong bối cảnh mới. Chính phủ đã có nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhà nước nâng cao công nghệ, nhưng việc triển khai còn chậm và chưa đồng bộ. Do đó, các doanh nghiệp nhà nước cần tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D); tìm kiếm cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh… Ngoài ra, các doanh nghiệp nhà nước cần nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực, cũng như đảm bảo minh bạch trong hoạt động, tài chính của doanh nghiệp nhà nước để tạo sự tin tưởng từ cộng đồng. Trước những thách thức về cạnh tranh, các cơ quan quản lý nên khuyến khích các hình thức hợp tác giữa doanh nghiệp nhà nước và khu vực tư nhân để tăng cường hiệu quả đầu tư, chia sẻ rủi ro… Cũng như nên sử dụng các công cụ tiếp thị hiện đại để nâng cao khả năng tiếp cận và nhận diện thương hiệu; tìm kiếm và xây dựng các kênh phân phối mới để tăng trưởng doanh thu. Có thể thấy, đổi mới doanh nghiệp nhà nước không chỉ là nhiệm vụ của riêng các doanh nghiệp mà còn cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, các tổ chức xã hội và cộng đồng doanh nghiệp. Việc thực hiện các giải pháp trên sẽ giúp doanh nghiệp nhà nước phát triển bền vững, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế của đất nước. Để thành công trong quá trình đổi mới trong bối cảnh mới cần có sự quyết tâm cao từ Đảng, Nhà nước, Chính phủ và lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước.      Theo Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, đến nay, cả nước có 671 doanh nghiệp nhà nước bao gồm 6 tập đoàn kinh tế, 53 tổng công ty nhà nước và 19 Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con. Trong đó, tuy chỉ chiếm hơn 10% về số lượng, nhưng khối các tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con lại có vai trò kinh tế quan trọng, nắm giữ 92% tổng tài sản và 90% tổng vốn chủ sở hữu, 93% tổng doanh thu và 85% tổng đóng góp ngân sách nhà nước của doanh nghiệp nhà nước trên toàn quốc. Lũy kế 9 tháng năm 2024, lợi nhuận trước thuế của 19 tập đoàn, tổng công ty ước đạt gần 85.887 tỷ đồng, bằng 105% kế hoạch năm. Xin cảm ơn ông! Hương Dịu (thực hiện)

KỲ VỌNG TÍCH CỰC VỀ TĂNG TRƯỞNG GDP

Cuối năm 2024, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục đón nhận nhiều kỳ vọng tích cực về tăng trưởng GDP. Với dự báo từ các tổ chức quốc tế và động lực từ chính sách trong nước, nhiều ý kiến lạc quan cho rằng, Việt Nam có khả năng vượt mục tiêu GDP mà Quốc hội đã đề ra. Để hiểu rõ hơn về những yếu tố thúc đẩy và các dự đoán cho tương lai, chúng tôi đã có buổi trao đổi với PGS. TS Đinh Trọng Thịnh, Nguyên Trưởng Khoa Tài chính quốc tế - Học viện Tài chính, quanh vấn đề này.     Thưa ông, chỉ còn hơn một tháng nữa là kết thúc năm 2024, nhiều ý kiến nhận định tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam năm nay sẽ vượt mục tiêu Quốc hội đề ra. Ông đánh giá như thế nào về nhận định này? Chắc chắn chúng ta sẽ hoàn thành mục tiêu này. Tôi cho rằng, hai tháng cuối năm 2024 chính là thời điểm nước rút mà nếu khai thác tốt, Việt Nam có thể tạo ra những kỳ tích mới chưa từng có trong lịch sử phát triển thời kỳ đổi mới. Nhìn vào các yếu tố kinh tế vĩ mô và dự báo tăng trưởng từ nhiều tổ chức quốc tế, tôi thấy những nhận định này là có cơ sở. Các tổ chức tài chính lớn đều tỏ ra lạc quan về tiềm năng tăng trưởng của Việt Nam. Ngân hàng Standard Chartered đã nâng dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam từ 6% lên 6,8%. Trong khi đó, HSBC dự báo Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 7%, trở thành nền kinh tế phát triển nhanh nhất ASEAN. Đặc biệt, mặc dù tốc độ tăng trưởng có dấu hiệu chậm lại từ quý III, nhưng GDP vẫn duy trì ở mức ổn định, với mức dự báo cho quý IV là khoảng 6,9%.   Theo tôi, với các điều kiện thuận lợi hiện tại, tăng trưởng GDP cả năm của Việt Nam có thể đạt mức từ 7,2% đến 7,3%. Có vẻ như các yếu tố nội tại đang hỗ trợ rất tốt cho kinh tế Việt Nam, nhưng tác động của các yếu tố quốc tế, như quyết định hạ lãi suất của Fed, sẽ có ảnh hưởng thế nào đến chúng ta, thưa ông? Đúng vậy. Việc Fed hạ lãi suất gần đây có ảnh hưởng rất tích cực đến kinh tế Việt Nam, dù có độ trễ nhất định. Ngày 19/9/2024, lần đầu tiên kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát, Fed đã giảm lãi suất 50 điểm cơ bản. Sau đó không lâu, vào tháng 11, Fed tiếp tục giảm 25 điểm cơ bản nữa, đưa lãi suất xuống khoảng 4,5% đến 4,75%. Động thái hạ lãi suất này mang đến hai tác động chính. Thứ nhất, nó giúp ổn định kinh tế vĩ mô Việt Nam vì Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của chúng ta, với tổng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ đạt 98,4 tỷ USD trong 10 tháng đầu năm, chiếm trên 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Thứ hai, với việc lãi suất giảm, đồng USD sẽ yếu hơn, đồng nghĩa với việc các nhà nhập khẩu Mỹ có xu hướng tiêu dùng nhiều hơn, hỗ trợ mạnh cho xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, như đã nói, tác động sẽ không đến ngay mà có độ trễ. Ngoài ra, tăng trưởng của Việt Nam vẫn phụ thuộc vào tình hình kinh tế toàn cầu, các yếu tố như lạm phát, chính sách thương mại và sự ổn định nội tại. Dù vậy, tôi cho rằng năm 2024 vẫn sẽ là một năm tăng trưởng tốt, nhờ sự phục hồi của kinh tế thế giới và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ. Sang năm 2025, nếu Fed tiếp tục lộ trình nới lỏng tiền tệ, Việt Nam sẽ còn có thể duy trì đà tăng trưởng ổn định hơn. Ông đánh giá như thế nào về tác động từ việc ông Donald Trump vừa đắc cử Tổng thống Mỹ lên nền kinh tế Việt Nam? Việc ông Trump trở lại Nhà Trắng có thể đem đến cả cơ hội và thách thức cho Việt Nam. Ở nhiệm kỳ trước, ông Trump từng có nhiều chính sách bảo hộ, và nếu ông tiếp tục xu hướng này, chắc chắn sẽ có ảnh hưởng nhất định đến nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, điểm sáng là Việt Nam vẫn có khả năng duy trì đà tăng trưởng ổn định. Với việc ông Trump cam kết đánh thuế 10% trên tất cả hàng nhập khẩu và mức thuế 60% đối với hàng từ Trung Quốc, Việt Nam có thể hưởng lợi từ vị thế cạnh tranh. Trong đó, các mặt hàng xuất khẩu có lợi thế về giá rẻ như cá tra, cá basa sẽ đặc biệt cạnh tranh tại thị trường Mỹ khi giá thành thấp hơn cá Mỹ và Trung Quốc, do đó có thể chiếm lĩnh một phần thị phần tại đây. Dĩ nhiên, Việt Nam cũng cần cảnh giác với khả năng Mỹ áp thuế lên hàng hóa của chúng ta, nhất là khi thương mại Mỹ - Việt ngày càng phát triển. Nhưng tôi tin rằng khả năng đánh thuế nặng lên hàng hóa Việt Nam là khá thấp. Việt Nam có lợi thế cạnh tranh không chỉ ở chi phí nhân công mà còn ở hạ tầng cải thiện và sự linh hoạt, nhanh nhạy của các doanh nghiệp trong nước. Chính điều này giúp chúng ta duy trì vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu, bất chấp sự thay đổi từ chính sách thuế quan của Mỹ. Quốc hội vừa thông qua kế hoạch tăng trưởng GDP năm 2025 ở mức 6,5% đến 7%, ông nghĩ sao về mục tiêu này? Tôi cho rằng đây là một mục tiêu thận trọng, nhưng hoàn toàn có thể vượt qua được. Nếu không có yếu tố bất ngờ như thiên tai, chiến tranh, hay tình hình lãi suất thay đổi mạnh mẽ, Việt Nam hoàn toàn có thể đạt được mức tăng trưởng vượt mức mục tiêu. Tôi dự báo hai kịch bản cho nền kinh tế Việt Nam trong năm 2025. Ở kịch bản thận trọng, chúng ta sẽ có mức tăng trưởng GDP từ 6,8% đến 7,3% với lạm phát ổn định trong khoảng 3,2% đến 3,5%. Còn trong kịch bản tích cực, GDP có thể đạt từ 7,3% đến 7,8% và lạm phát nằm trong mức 3,5% đến 3,8%. Để hiện thực hóa các mục tiêu này, chúng ta cần tập trung vào việc duy trì các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và cải thiện hạ tầng để tối ưu hóa chi phí và thời gian vận chuyển. Ông có nghĩ rằng cải cách hành chính sẽ đóng vai trò lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới? Cải cách hành chính là yếu tố then chốt để thúc đẩy nền kinh tế phát triển bền vững. Để đạt được các mục tiêu đặt ra, Chính phủ cần tiếp tục tinh giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. Hiện tại, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, đang gặp khó khăn vì thủ tục hành chính phức tạp, mất nhiều thời gian và chi phí. Đơn giản hóa quy trình đăng ký, cấp phép và giảm bớt các thủ tục không cần thiết sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí, từ đó tạo động lực để mở rộng hoạt động sản xuất và đầu tư. Bên cạnh đó, các dự án đầu tư công cũng cần được triển khai đúng tiến độ để nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, giúp kết nối và mở rộng giao thương. Việc đầu tư mạnh vào hạ tầng không chỉ giúp giảm chi phí logistics mà còn tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Ông có thể đưa ra một kết luận về triển vọng kinh tế của Việt Nam trong năm tới không, thưa ông? Việt Nam đang ở trong giai đoạn rất thuận lợi để phát triển. Với tốc độ tăng trưởng ổn định, khả năng cạnh tranh và chính sách hỗ trợ từ Chính phủ, tôi tin rằng chúng ta sẽ tiếp tục là một điểm sáng của kinh tế ASEAN. Cùng với đó, doanh nghiệp Việt Nam ngày càng cải thiện về khả năng cạnh tranh quốc tế, không chỉ nhờ vào nguồn nhân công giá rẻ mà còn ở chất lượng sản phẩm và khả năng đáp ứng nhanh chóng với yêu cầu thị trường. Điều này giúp Việt Nam tạo dựng uy tín và duy trì đà phát triển ổn định. Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế toàn cầu không ngừng biến động, Việt Nam cần duy trì chính sách linh hoạt, cải cách hành chính, và nâng cao năng lực nội tại của các ngành sản xuất chủ lực để ứng phó với những thách thức trong tương lai. Vẫn còn nhiều điều kiện để Việt Nam vươn lên trở thành một nền kinh tế phát triển hơn trong khu vực và trên toàn cầu, nếu chúng ta duy trì chiến lược và sự đoàn kết hiện tại. Trân trọng cảm ơn ông! Thu Lý (thực hiện)