Thứ ba, 16/9/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ ba, 16/9/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

GIẢI PHÁP CHO SỰ PHÁT TRIỂN CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Việt nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều tác động trực tiếp tới hoạt động của các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán. Các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán sẽ là những đối tượng chịu tác động trực tiếp của các cam kết cụ thể của Việt nam trong lĩnh vực này, đây là những thách thức

 

Giải pháp cho sự phát triển chứng khoán Việt Nam

 

Nh÷ng gi¶i ph¸p c¬ b¶n cho sù  ph¸t triÓn lµnh m¹nh

cã hiÖu qu¶ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN trong ®iÒu kiÖn héi nhËp KINH TẾ QUỐC TẾ

                                                                                                     

                                                                              Ths Ngô thị Việt Hà

1- Thùc tr¹ng thị tr­ường chøng kho¸n ViÖt Nam

 

Thị trường chứng khoán Việt nam đã đi vào hoạt động từ năm 2000, sau  8 năm hoạt động đã trở thành một kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển. Theo đánh giá ban đầu thị trường chứng khoán Việt Nam bước đầu hoạt động tương đối an toàn, không gây ra những biến động lớn hoặc tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế xã hội của đất nước

Với thời gian tồn tại và phát triển quá ngắn như vậy, thị trường chứng khoán Việt nam vẫn ở giai đoạn sơ khai, số lượng các doanh nghiệp niêm yết và số người tham gia giao dịch không nhiều. Tính đến tháng 11 năm 2008 cả nước có 312 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và TTGDCK. Tổng giá trị vốn hóa thị trường đến ngày 25/9/2008 ước đạt khoảng 25,7% GDP ( so víi møc vèn ho¸ thÞ tr­êng cuèi n¨m 2007 lµ 43% GDP

Hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt nam, bên cạnh thị trường có tổ chức hoạt động của thị trường chứng khoán tự do còn ở phạm vi khá rộng với khoảng trên 800 loại cổ phiếu của công ty đang được giao dịch với giá trị ước tính gấp hơn 2 lần giá  trị của thị trường có tổ chức. Những đặc điểm nổi bật của thị trường tự do là : thiếu tính công khai, minh bạch, không được tổ chức quản lý và giám sát , nên khả năng xảy ra rủi ro rất lớn như mất khả năng thanh toán, chứng khoán giả , lừa đảo…. Những mặt trái này đã gây sự bất ổn cho cho thị trường chính thức và cả hệ thống tài chính.

Thị trường chứng khoán Việt nam cho đến này vẫn chưa là “ hàn thử biểu” của nền kinh tế và chưa được coi là kênh huy động vốn của Doanh nghiệp. Chức năng cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán Việt nam vẫn chưa thể hiện rõ. Vốn dài hạn vẫn chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường tín dụng. Đó là điểm bất cập không phù hợp với sự phát triển của thị trường tài chính. Trong thời gian tới cần thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán nhằm tách hẳn chức tăng cung ứng vốn dài hạn ra khỏi hoạt động của tín dụng ngân hàng

Nhìn lại thị trường chứng khoán Việt nam sau gần 8 năm hoạt động, còn nhiều tồn tại , đó là :

a - Về quy mô của thị trường chứng khoán Việt nam so với các nước trong khu vực vẫn còn nhỏ, tuy vốn hóa thị trường tăng nhanh cã thêi gian đạt 43% GDP. Trên thị trường chứng khoán chỉ có  một số công ty lớn ở lĩnh vực kinh doanh tương đối ổn định, có mức tăng trưởng đều qua các năm, còn lại phần lớn các công ty niêm yết vẫn chưa phải là công ty lớn nhất trong nền kinh tế và chưa đại diện tiêu biểu cho sự đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP của Việt Nam. Giá chứng khoán ( chỉ số giá cổ phiếu VN- index  ) tăng giảm thất thường, thị trường chứng khoán trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự bền vững lành mạnh.

Từ năm 2006 đến nay, TTCK Việt Nam đã phát triển lên một cấp độ mới vừa trải qua nhiều thăng trầm đột biến. Thị trường có lúc hừng hực sôi động, nở bung như “bong bóng”sau đó lại xì hơi tụt dốc. Tuy trong thời gian rất ngắn TTCK Việt Nam có những bước tiến vượt bậc và có không ít thành công, song cũng chư bao giờ như lúc này, tâm lý bất ổn ngự trị trong các nhà đầu tư.

Nếu nhìn lại sau 2 năm Việt nam gia nhập ƯTO chúng ta lại càng thấy rõ điều đó. Trong 2 năm Việt nam gia nhập ƯTO chúng ta lại càng thấy rõ điều đó. Trong 2 năm 2007 và 2008 TTCK Việt nam đã diễn biến khá phức tạp thể hiện qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Tiếp theo đã suy giảm của TTCK trong năm 2007, chỉ số giá chứng khoán trong năm 2008 tiếp tục diễn biến phức tạp theo chiều hướng suy giảm. Chỉ số giá cổ phiếu VN-index ngày đầu giao dịch của năm 2008 là 921,07 điểm(ngày2/1/2008), chỉ số giá cổ phiếu trong 11 tháng qua là 299,68 điểm(ngày 5/12/2008).

 

b- Về hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều bất cập về tài chính. Mặc dầu các công ty chứng khoán đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn ( đối với các công ty chứng khoán trực thuộc ngân hàng thương mại ), nhưng nhìn chung vốn điều lệ vẫn còn thấp, điều đó đã ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty chỉ  đóng vai trò đầu tư dẫn dắt thị trường hoặc rủi ro do mức vốn khả dụng thấp

 Về cơ sở vật chất, kỹ thuật và hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế. Đội ngũ về nhân sự hành nghề có chuyên môn có giấy phép hành nghề, đặc biệt về chất lượng về nhân sự lãnh đạo công ty còn thiếu và yếu về nghiệp vụ chuyên môn kinh doanh chứng khoán cũng như tư vấn pháp luật về chuyển đổi doanh nghiệp.

Trên thực tế hiện nay số lượng công ty chứng khoán ở nước ta vượt quá quy mô thị trường, nếu so sánh với các nước trong khu vực ( Trung quốc 107 công ty, Malaysia 37 công ty, Thái Lan 41 công ty, Singapor 27 công ty và Hàn quốc trên 50 công ty ).

c- Tuy số lượng tài khoản đầu tư tăng nhanh, nhưng chủ yếu  là tài khoản cá nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị tác động chi phối bởi các nhà đầu tư lởn trên thị trường. Những nhà đầu tư này lại thiếu kỹ năng phân tích đầu tư, phân tích thị trường, do vậy ảnh hưởng tới sự ổn định của thị trường . Những nhà đầu tư chuyên nghiệp chiếm tỷ trọng còn khiêm tốn, một số nhà đầu tư lớn nước ngoài mở tài khoản nhưng chưa tham gia vào đầu tư. Các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước thông qua các tài khoản ủy thác cá nhân và đầu tư tập trung vào cổ phiếu các doanh nhgiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư nhiều trên SGDCKTP Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà nội

d- Như trên đã nêu, thị trường chứng khoán tự do còn khá lớn, có nhiều nhược điểm, gây sự bất ổn định cho thị trường chính thức. Còn các doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa chưa tích cực đưa cổ phiếu vào đăng ký, lưu ký tập trung để niêm yết và giao dịch qua các SGDCKH TP Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà nội bởi nhiều lý do không chính đáng

đ- Tuy Luật chứng khoán được ra đời thay thế Nghị định 144/2003/NĐ-CP, ngµy 28/11/2003 cña ChÝnh phñ vÒ Chøng kho¸n vµ ThÞ tr­êng chøng kho¸n , song hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán còn  bất cập và chưa được hoàn thiện. Sự đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm,..còn chưa thật hoàn thiện. . So với yêu cầu đòi hỏi của thực tế của sự phát triển thị trường tài chính và các định chế tài chính trong nền kinh tế thị trường đối với năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước còn hạn chế

Cơ quan quản lý Nhà nước, SGDCK và TTGDCK, các công ty chứng khoán, công ty niêm yết trong công tác quản lý, điều hành  hoạt động của thị trường chứng khoán còn thiếu kinh nhgiệm thực tiễn và còn những bất cập. Chứng khoán và Thị trường chứng khoán là một lĩnh vực mới đối với mỗi người Việt nam, vì Việt nam đã có quá trình lâu năm với cơ chế kinh tế kế hoach hóa tập trung. Do vậy công tác tuyên truyền, phổ cập kiến thức  cơ bản về lĩnh vực này còn chưa được chú trọng đúng mức, chưa phù hợp và đáp ứng với yêu cầu phảt triển của thị trường chứng khoán. Nên sự tham gia của các nhà đầu tư vào thị trường này còn chưa đông và việc tham gia của các nhà đầu tư còn mang tính theo kiểu “ phong trào” và “ bầy đàn”

2- Nh÷ng c¬ héi vµ th¸ch thøc đối với sù ph¸t triÓn TTCK ViÖt nam trong tiÕn tr×nh héi nhËp KTQT

Đối với Việt Nam, đây là ngành dịch vụ mới được hình thành từ năm 2000, nhưng nhiều thành viên WTO, nhất là các thành viên có hệ thống tài chính phát triển rất quan tâm và đưa ra yêu cầu cao về mức độ mở cửa cửa thị trường cho các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài

Các cam kết của Việt nam với WTO đối với lĩnh vực dịch vụ chứng khoán, đó là :

- Các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài được cung cấp qua biên giới ( mà không cần thành lập pháp nhân ở Việt Nam ) đối với dịch vụ cung cấp thông tin tài chính, tư vấn, trung gian và các dịch vụ phụ trợ liên quan đến chứng khoán

-  Các tổ chức, cá nhân Việt nam được sử dụng dịch vụ chứng khoán ở nước ngoài

- Các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện và liên doanh đến 49% vốn đầu tư nước ngoài từ thời điểm gia nhập. Được phép thành lập công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán 100% vốn ĐTNN sau 5 năm kể từ khi gia nhập và được phép thành lập chi nhánh của công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài sau 5 năm đối với một số loại hình : quản lý tài sản, thanh toán, tư vấn liên quan đến chứng khoán và cung cấp, trao đổi thông tin tài chính

Theo những cam kết về lĩnh vực dịch vụ chứng khoán của Việt nam với WTO, lộ trình mở cửa hội nhập của thị trường chứng khoán của Việt Nam sẽ được triển khai theo Luật chứng khoán, Luật đầu tư nước ngoài và những cam kết với WTO, theo những nội dung sau :

- Tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư trên TTCK Việt Nam sẽ không hạn chế , nếu không thuộc lĩnh vực ngành nghề kinh doanh bị cấm hoặc kinh doanh có điều kiện đối với lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, không bao gồm các lĩnh vực đầu tư trong các  điều ước quốc tế mà Việt nam cam kết mở cửa thị trường nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần không hạn chế sau khi trừ đi phần vốn nhà nước nắm giữ dành cho người  lao động trong doanh nghiệp

- Cho phép thành lập văn phòng đại diện  và liên doanh đến 49% vốn ĐTNN từ thời điểm gia nhập. Sau 5 năm kể từ thời điểm gia nhập cho phép thành lập các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán 100% vốn nước ngoài và cho phép các chi nhánh của các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán nước ngoài hoạt động trong các loại hình dịch vụ quản lý tài sản, quản lý quỹ đầu tư, lưu ký, thanh toán bù trừ, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính, tư vấn và các hoạt động môi giới và phụ trợ khác liên quan đến chứng khoán. Tuy nhiên, không mở cửa cho chi nhánh đối với các loại hình dịch vụ kinh doanh chứng khoán và tham gia phát hành

Các công ty đầu tư nước ngoài sẽ được hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia trong lĩnh vực tài chính. Các quy chế về tiếp cận thị trường nước ngoài sẽ tương tự hoặc cao hơn so với các quy chế này của các nước OECD

- Trong lộ tình cam kết với UBCK các nước ( IOSCO ) đến năm 2010 là thời hạn cuối cùng các nước ký kết MMOV, đảm bảo phải tuân thủ chấp hành các tiêu chuẩn và điều kiện chung về kế toán, công bố thông tin, quản trị công ty,..

Hội nhập kinh tế giúp cho việc đẩy mạnh các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam, đặc biệt là dòng vốn đầu tư gián tiếp, thông qua thị trường chứng khoán, đáp ứng nhu cầu cho việc huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài khoảng 30% trong tổng số 140 tỷ USD cho giai đoạn phát triển kinh tế 2006-2010. Hội nhập kinh tế tạo điều kiện và cơ hội cho việc tiếp cận nhanh và tốt hơn kinh nghiệm quốc tế về quản lý, công nghệ tiên tiến trong việc phát triển thị trường chứng khoán của các nước tiên tiến. Việc mở cửa thị trường chứng khoán Việt nam sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các tổ chức kinh doanh chứng khoán trong và ngoài nước để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho nhà đầu tư. Đồng thời từ đó sẽ trao đổi học tập kinh nghiệm và hợp tác trong việc phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam

Việt Nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều tác động trực tiếp tới hoạt động của các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán. Các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán sẽ là những đối tượng chịu tác động trực tiếp của các cam kết cụ thể của Việt nam trong lĩnh vực này, đây là những thách thức.

Thị trường chứng khoán Việt Nam mới ở giai đoạn đầu phát triển, trong khi đó ở các nước trên thế giới thị trường vốn đã phát triển cao và dựa trên những chuẩn mực, quy trình tác nghiệp, trình độ công nghệ cao và hệ thống pháp lý hoàn chỉnh. Mặc dầu Luật chứng khoán mới ra đời tuy phù hợp với các cam kết và với thông lệ quốc tế, song còn nhiều vấn đề về định chế và pháp lý cần tiếp tục hoàn thiện cho phù hợp với thông lệ quốc tế, như : luật phá sản, xử lý tranh chấp, mối quan hệ trách nhiệm - quyền hạn của tổ chức cá nhân tham gia thị trường ( nhà đầu tư, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, nhà đầu tư,..) xây dựng tổng thể chính sách phát triển thị trường chứng khoán, các chính sách để liên kết thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản.

Các tổ chức trung gian của Việt Nam còn ở giai đoạn sơ khai và đang ở trình độ thấp so với nhiều nước trên thế giới, thiếu kinh nghiệm về chuyên môn và yếu về năng lực tài chính. Đây sẽ là những thách thức lớn đối với các tổ chức trung gian dưới áp lực cạnh tranh

Những hạn chế và yếu kém về chất lượng chuyên môn; Về đạo đức nghề nghiệp thể hiện chưa có các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ kinh doanh chứng khoán; Về năng lực tài chính thể hiện mức vốn điều lệ còn thấp so với các nước trong khu vực; Về cơ sở vât chất kỹ thuật ứng dụng công nghệ thông tin; về công bố các thông tin, công tác quản trị doanh nghiệp chưa được đáp ứng đươc yêu cầu về quản lý thị trường đối với cả các công ty niêm yết lẫn các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán cũng như Sở GDCK và TTGDCK

Với sự phát triển của nền kinh tế và thị trường vốn, quy mô thị trường chứng khoán và nhu cầu về dịch vụ chứng khoán trong thời gian tới sẽ tăng mạnh. Sự xuất hiện của các quỹ  đầu tư và nhà ĐTNN có tác động mạnh tới phát triển thị trường, tuy nhiên cũng tiềm ẩn nguy cơ cao khi cơ sở hạ tầng chứng khoán phát triển không tương ứng  với thị trường. Đồng thời, với xu hướng mở rộng áp dụng công nghệ thông tin, thì đây sẽ là thách thức lớn đối với việc giám sát rủi ro, duy trì sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán.

Trong điều kiện hội nhập thì nguy cơ thâu tóm, thao túng từ các nhà đầu tư nước ngoài và nguy cơ ảnh hưởng đến cân đối vĩ mô của nền kinh tế là những điều có thể xẩy ra. Ngoài ra còn các nguy cơ tiềm tàng khác, như : mất chủ quyền do các nước mạnh áp đặt các nguyên tắc hoăc áp đặt các ràng buộc mà các thể chế tài chính quốc tế quy định; Nguy cơ biến dạng thị trường; Khả năng lây lan rủi ro; v,v..

Việt nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều tác động trực tiếp tới hoạt động của các công ty cung cấp dịch vụ chứng khoán. Các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán sẽ là những đối tượng chịu tác động trực tiếp của các cam kết cụ thể của Việt nam trong lĩnh vực này, đây là những thách thức.

Luật Chứng khoán đã được Quốc hội Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua. Luật chứng khoán ra đời đã tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế. Luật chứng khoán tạo cơ sở cho thị trường chứng khoán phát triển nhanh và ổn định, tạo tâm lý yên tâm cho tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán và đảm bảo lợi ích cho nhà đầu tư; giúp công chúng dễ dàng hiểu biết  về chứng khoán, thị trường chứng khoán và có cơ sở pháp lý để công chúng tham gia thị trường khi có điều kiện. Đồng thời giúp việc phân định rõ vai trò của từng thị trường vốn trung , dài và ngắn hạn trong cơ cấu thị  trường tài chính; bảo đảm và phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường chứng khoán, giảm gánh nặng trong việc dùng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn của hệ thống ngân hàng hiện nay và góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong cộng đồng và các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Luật chứng khoán đã đáp ứng yêu cầu của các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập, đặc biệt là các cam kết về hệ thống pháp luật phục vụ quá trình đàm phán gia nhập WTO

3- Những giải pháp phát c¬ b¶n cho sù  ph¸t triÓn lµnh m¹nh cã hiÖu qu¶ cña TTCK trong ®iÒu kiÖn héi nhËp KTQT.

Ngày 2/8/2007, Thủ tường Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt : “ Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”. Nội dung của quyết định này đã nêu rõ các giải pháp thực hiện đề án phát triển thị trường vốn trong những năm tới. Đó là :

Về giải pháp dài hạn : Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc.  Phát triển mạnh các kênh cung cấp vốn cả trong và ngoài nước cho thị trường, mở rộng hệ thống các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức; phát triển đầy đủ các định chế trung gian; đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp,..đảm bảo đầy các yếu tố cấu thành một thị trường vốn phát triển trong khu vực; kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; hài hòa giữa mục tiêu huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững thị trường vốn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Tăng cướng quản lý Nhà nước, thực hiện có hiệu quả chức năng thanh tra, kiểm tra giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên thị trường

Về giải pháp trước mắt : Phát triển quy mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa để đáp ứng nhu cầu thị trường; từng bước hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường vốn đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà nước; Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường ; Phát triển hệ thống nhà đầu tư trong nước và ngoài nước ; Hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của nhà nước; Chủ động mở cửa hội nhập với khu vực và quốc tế; Đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

Từ thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam những năm qua và đặc biệt là sau gần 2 năm Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO, qua diễn biến giao dịch trên TTCK khá phức tạp; Hoạt động của các tổ chức niêm yết; của các tổ chức trung gian; về hoạt động đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở dự báo xu hướng về phát triển kinh tế và những hoạt động có liên quan đến hoạt động của thị trường chøng kho¸n, đó là :

-  Nền kinh tế Việt nam năm 2009 gạp nhiều khóa khăn, song vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhưng có nhiều nhân tố suy giảm. Chỉ số giá tiêu dùng có chiều hướng diễn biến phức tạp. Những vấn đề đó đã ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô, tới hoạt động của các doanh nghiepj, tới đời sống xã hội của mọi đối tượng trong nền kinh tế.

-  Do Việt nam cải thiện môi trường đầu tư, vị thế của Việt nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao và khẳng định. Do vậy, luồng vồn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp của nước ngoài cũng sẽ được tăng nhanh.

- Tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiêp lớn, thông qua các đợt đấu giá cổ phần lần đầu trên thị trường chứng khoán ( IPO) sẽ tác động mạnh tới nguồn cung hàng hóa chứng khoán , tạo ra sự mất cân đối cung cầu, làm cho giá chứng khoán khó phục hồi. Số lương các công ty phát hành cổ phiếu và đưa vào niêm yết trong năm 2008 khoảng trªn 80 công ty, tạo nên nguồn hàng lớn cho thị trường chứng khoán

-  Cuéc khñng ho¶ng tµi chÝnh cña thÕ giíi, ®Æc biÖt cña Mü vµ Ch©u ©u, nên diễn biến TTCK quốc tế kh«ng cã  dấu hiệu tăng trưởng ®ang trong thời kú suy giảm mạnh

Từ những nội dung phân tích trên, chúng tôi xin đưa ra những giải pháp nhằm phát triển TTCK Viêt nam trong những năm tới một cách bền vững :

Về giải pháp kinh tế vĩ mô :

- Kiểm soát lạm phát ( CPI ) , đây là một trong những điều kiện và tiền đề rất quan trong  để thị trường chứng khoán Việt nam phát triển lành mạnh, hiệu quả và ổn định.

-  Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn quan trọng, cần được quan tâm phát triển theo hướng tăng cung hàng hóa cho thị trường cả về số lượng, chất lượng và chủng loại; phát triển các thị trường giao dịch trái phiếu; triển khai thực hiện thị trường trái phiếu chuyên biệt và thị trường giao dịch chứng khoán chưa niêm yết.

Để khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán đồng bộ với các quy định khác của Việt Nam, phù hợp với các cam kết quốc tế và đảm bảo sự bình đẳng cho các thành phần kinh tế,  ngành tài chính cần tiến hành sửa đổi và bổ sung các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán và một số điểm của Nghị định về kinh doanh chứng khoán và xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán; Xây dựng Đề án chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến 2020 và trình Chính phủ ban hành Nghị định phát hành chứng khoán riêng lẻ.

- Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa, hài hòa giữa mục tiêu huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững thị trường vốn với ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo sự an ninh tài chính

- Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc ( bao gồm cổ phiếu tập trung, thị trường quản lý OTC, thị trường trái phiếu vận hành theo thông lệ quốc tế tốt nhất có khả năng liên kết với các thị trường khu vực và quốc tế.

Trước mắt cần thành lập thị trường giao dịch trái phiếu Chính phủ ( TPCP) . Thị trường TPCP có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế. Đây không chỉ là một kênh dẫn vốn hữu hiệu cho nền kinh tế, mà còn tạo ra sự đa dạng hóa các công cụ đầu tư trên thị trường vốn, cho phép các nhà đầu tư có thêm lựa chọn đầu tư ít rủi ro hơn. Thị trường TPCP còn là nền tảng cơ bản cho sự phát triển của thị trường trái phiếu công ty thông qua cung cấp có sở cho định giá chuẩn tin cậy cho các công cụ khác nhờ vậy thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính nói chung. Thị trường TPCP còn giúp tăng cường sự độc lập trong điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng TW thông qua mua bán TPCP, tác động trực tiếp đến lượng cung tiền và các biến số kinh tế vĩ mô khác

Xây dựng và phát triển thị trường trái phiếu, đặc biệt là thị trường TPCP, đó là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt nam từ nay đến năm 2020. Nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp của sự kém phát triển thị trường TPCP của Việt nam chủ yếu đều từ thị trường sơ cấp. Phát triển thị trường trái phiếu thứ cấp  có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động phát hành trên thị trường sơ cấp nói riêng và sự phát triển thị trường trái phiếu và thị trường vốn nói chung. Thị trường phát hành giúp cho Chính phủ huy động vốn phục vụ nhu cầu phát triển trong từng thời kỳ và đồng thời tạo nguồn hàng cho thị trường thứ cấp, góp phần  bình ổn và thức đẩy thị trường giao dịch TPCP phát triển. Thị trường giao dịch TPCP là nơi thể hiện rõ nét nhất những bất cập trên thị trường sơ cấp và nếu được tổ chức tốt thì cũng phản hồi một cách nhanh nhậy nhất các diễn biến về lãi suất trên thị trường. Do vậy, cần xây dựng một mô hình giao dịch phù hợp cho thị trường TPCP ở Việt nam với lộ trình phù hợp với những cải cách trên thị trường giao dịch trái phiếu ở Viêt  nam và phù hợp với thông lệ quốc tế

Những giải pháp về quản lý và cơ chế chính sách :

- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và có những biện pháp hạn chế những mặt trái của  các đối tượng trên thị trường chứng khoán; Tăng cường công bố thông tin trên thị trường chứng khoán, nâng cao tính minh bạch của thị trường. Đặc biệt là việc công bố các thông tin về các tổ chức niêm yết và công ty chứng khoán.

- Cần ban hành Nghị định của Chính phủ về quản lý phát hành riêng lẻ; Chính phủ cho phép mở chi nhánh và thành lập công ty quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam sớm hơn lộ trình cam kết trong WTO và ban hành danh mục ngành nghề kinh doanh có kiểm soát tỷ lệ vốn của nhà đầu tư nước ngoài và công bố ra thị trường. Trước mắt, duy trì mức sở hữu nước ngoài 49% vốn điều lệ đối với công ty niêm yết và công ty đại chúng theo luật chúng khoán. Bộ Tài chính triển khai tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán của công ty đại chúng chưa niêm yết tại TTGDCK Hà nội thông qua phương thức giao dịch OTC tại công ty chứng khoán và thanh toán bù trừ tại trung tâm Lưu ký chứng khoán. Trình Thủ tướng sửa đổi bổ xung Nghị định 14/CP để tăng quy mô vốn, công nghệ, nghiệp vụ, giấy phép hành nghề khi thành lập công ty chứng khoán khắc phục hiện tượng quá tải xin thành lập hiện nay.

Về giải pháp điều chỉnh cung cầu :

 Chính phủ cần có lộ trình cho việc phát hành chứng khoán lần đầu ( IPO)  thật hợp lý đối vói các doanh nghiệp cổ phần hóa và các doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu.  Căn cứ vào thực trang và năng lực của từng  ngân hàng mà kiểm soát mức cho vay đầu tư chứng khoán, có thể cho phép ngân hàng tăng dự nợ cho vay chứng khoán, nhưng đồng thời cũng phải tăng mức ký quỹ đảm bảo tương ứng

Về địa vị của UBCKNN, hiện nay vẫn là cơ quan trong Bộ Tài chính có chức năng và thẩm quyền, đảm bảo tính độc lập cần thiết và thực quyền trong việc xử lý các vấn đề nghiệp vụ chứng khoán. Về lâu dài, theo chúng tôi khi thị trường chứng khoán đã phát triển ổn định sẽ sắp xếp lại cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.

Qua những năm hoạt động thị trường chứng khoán và gần 2 năm thực hiện theo Luật chứng khoán cũng cần xem xét loại bỏ các thủ tục hành chính, các loại giấy phép không cần thiết, nhưng cũng đảm bảo yêu cầu của quản lý Nhà nước để thị trường này phát triển an toàn , ổn định. Hoạt động  kinh doanh chứng khoán là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, còn mới đối với Việt Nam, có nhiều rủi ro. Vì vậy trong quá trình thực hiện Luật chứng khoán  ở Việt Nam cần phải luôn xem xét và đánh giá tính khả thi và những nội dung của Luật đã đi vào cuộc sống và còn những điều gì bất cập cần phải hoàn thiện và sửa đổi cho phù hợp với điều kiện cũng như đặc thù thể chế của Việt nam, nhưng đồng thời cũng phải phù hợp với cam kết và thông lệ quốc tế.

4- Những giải pháp trước mắt nhằm vực dậy  và phát triển thị trường chứng khoán ViÖtnam

Năm 2008, thị trường chứng khoán Việt nam liên tục biến động phức tạp, dù Bộ Tài chính đã triển khai nhiều giải pháp tích cực. Chỉ số VN-Index tháng 11 đã giảm tới 70% so với hồi cuối năm 2007. Theo nhận định của Bộ Tài chính, trước tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô trong nước và khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, sự phục hồi của thị trường còn nhiều khó khăn. Đến thời điểm này đã có gần 330 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết trên thị trường chứng khoán với tổng giá trị vốn hoá cổ phiếu đạt khoảng 19% GDP.

Đứng trước những khó khăn và thách thức của thị trường chứng khoán hiện nay, báo cáo của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước tại Diễn đàn Kinh tế 2008 diễn ra ngày 2/10/2008 ở Hà Nội chỉ rõ những nhân tố khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến thị trường . Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cho biết trước mắt sẽ kiến nghị Chính phủ thông qua đề án “Phát triển bền vững, ngăn ngừa khủng hoảng trên thị trường chứng khoán” nhằm chủ động đối phó với những diễn biến phức tạp có thể xảy ra.

Năm 2009, nền kinh tế Mỹ và thế giới được dự báo vẫn tiếp tục xấu đi nếu các biện pháp của các chính phủ  không đạt được kết quả tốt. Điều đó cũng sẽ tác động đến sự phát triển của TTCK ở nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Nhưng tác động mạnh nhất là những yếu tố bên trong của chúng ta.

Theo chúng tôi, khi thị trường thế giới bất ổn thì Việt Nam chính là nơi có điều kiện đầu tư tốt hơn sẽ thu hút được nhiều hơn. Do đó nếu có những chính sách đúng đắn, thì thị trường sẽ tăng trưởng hợp lý. Điều đó còn phụ thuộc vào các chính sách nuôi dưỡng và khuyến khích của Nhà nước. Hiện TTCK Việt Nam vẫn chưa đủ độ lớn và độ mạnh như chúng ta đã đánh giá về nó. Số lượng tài khoản chứng khoán chỉ mới hơn 300.000 nhưng thật sự giao dịch chỉ khoảng 1/2. Đó là một con số rất nhỏ nếu so với dân số của Việt Nam. Theo tôi, tối thiểu phải đạt mức 2% dân số tham gia vào thị trường này thì mới tải được hết dung  lượng của thị trường.

Bên cạnh đó, bình quân lượng giao dịch mỗi ngày chỉ đạt khoảng 1.000 tỉ đồng so với tổng lượng vốn hóa của thị trường là 500.000 tỉ đồng cũng là quá nhỏ. Bất kể sự chuyển dịch nguồn vốn nào cũng sẽ khiến thị trường bị hụt hẫng ngay. Vì vậy, các chính sách của cơ quan quản lý Nhà nước phải theo hướng khuyến khích NĐT tham gia hơn là tính đến chuyện xiết chặt và thu hoạch từ nó. Nếu được cần nới lỏng chính sách về nguồn vốn, thuế thu nhập chứng khoán.

Về mặt quản lý chuyên ngành, cần tạo nên sự chuyên nghiệp, chuẩn mực và trật tự để NĐT không bị thiệt hại trong quá trình đầu tư của mình, đặc biệt là không làm tổn hại đến quyền lợi của NĐT cá nhân. Cụ thể như những yêu cầu về công bố thông tin của các công ty niêm yết phải được xây dựng theo các tiêu chí rõ ràng và có sự kiểm tra thường xuyên. Bên cạnh đó, các công ty khi phát hành cổ phiếu phải thực hiện chuyên nghiệp hơn. Không tự mình phá giá cổ phiếu theo những kiểu như đã làm từ trước đến nay và khiến cho NĐT thiệt hại, ảnh hưởng đến chất lượng của thị trường.

TTCK Việt Nam còn mới và nhỏ, vì thế vai trò của Nhà nước là hết sức quan trọng trong việc hỗ trợ, kiểm soát, và định hướng để thị trường phát triển lành mạnh và bền vững. Để hỗ trợ vực dậy thị trường chứng khoán phát triển trong trước mắt chúng ta cần có các biện pháp sau : 

Một là, Chính phủ có thể xem xét cho lùi thời hạn áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với lợi nhuận từ đầu tư chứng khoán và có lộ trình ưu đãi thuế. Đối với NĐT, ưu đãi thuế sẽ khuyến khích họ đầu tư vào thị trường vốn. Đối với doanh nghiệp, ưu đãi thuế gián tiếp giảm chi phí vốn, tăng hiệu quả, tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, và kích thích kinh tế nước nhà tăng trưởng. Kinh tế tăng trưởng thì nguồn thu từ thuế thu nhập doanh nghiệp và các loại thuế khác nhờ đó sẽ bù đắp, thậm chí còn lớn hơn nhiều so với khoản thu tạm thời mất đi từ ưu đãi thuế thu nhập chứng khoán.

            Từ ngày 1/1/2009 tới, thuế thu nhập cá nhân trong kinh doanh chứng khoán bắt đầu được triển khai.Cộng đồng NĐT vẫn cho rằng, trong giai đoạn hiện tại, tạm hoãn sắc thuế này là việc nên làm, như là một biện pháp hỗ trợ tốt cho thị trường, đặc biệt về mặt tâm lý. Tuy nhiên, liên quan vấn đề này, cơ quan phụ trách hành thu là Tổng cục Thuế đã có văn bản gửi Bộ Tài chính, trong đó không ủng hộ chủ trương giãn thu thuế chứng khoán. Về vấn đề thuế đánh vào hoạt động kinh doanh chứng khoán, từ kinh nghiệm của TTCK nhiều nước như Úc, Anh, Mỹ, cho thấy đã kinh doanh thì phải nộp thuế là vấn đề bình thường. Ở nhiều nước, hoạt động kinh doanh chứng khoán thậm chí còn chịu nhiều loại thuế. Nhưng đối với nước ta, vấn đề cơ bản là đánh thuế bao nhiêu cho hợp lý, hình thức đánh thuế như thế nào cho phù hợp.

Hiện nay, hầu hết NĐT ở lại với  thị trường đến thời điểm này đều đang bị thua lỗ. Nếu phải nộp thêm thuế thì tất nhiên ngày càng nhiều người chán nản vì thấy mình bị đối xử “chưa tốt”, vì trong lúc khó khăn không ai san sẻ, điều đó sẽ làm cho NĐT không còn hứng thú với thị trường. Thanh khoản của thị trường thấp thì NĐT có tổ chức trong và ngoài nước cũng không thấy hứng thú đầu tư. Vì vậy sàn vắng, thị trường kém thanh khoản, khó thêm hàng hóa cho thị trường do cổ phần hóa chậm, doanh nghiệp lớn ngại lên sàn vì sợ giá cổ phiếu không được như mong muốn. Đó là vòng luẩn quẩn. 

Do vậy, để vừa giữ sự nhất quán trong chính sách, vừa hỗ trợ được thị trường, theo chúng tôi  vẫn có thể tìm một giải pháp trung dung. Chúng ta vẫn áp dụng đánh thuế trong hoạt động kinh doanh chứng khoán, nhưng có thể áp dụng mức thuế suất 0% trong một thời gian , như kinh nghiệm một số nước áp dụng giải pháp tạm miễn thuế.  Như vậy là thuế chứng khoán vẫn làm đúng lộ trình, nhưng giải pháp thuế tạm thời hỗ trợ thị trường vẫn được thực thi, mọi NĐT hiểu rằng đã kinh doanh chứng khoán là phải nộp thuế. Mặt khác, với cơ quan quản lý, luật thuế cũng đã được thực hiện, chỉ là điều chỉnh thuế suất cho phù hợp, cũng là một cách điều tiết thị trường, một giải pháp hỗ trợ tạm thời cho NĐT. Ví dụ như Trung Quốc trong giai đoạn 2006 - 2007  khi thị trường tăng nóng thì Chính phủ nước này tăng thuế, gần đây khi thị trường sụt giảm mạnh thì họ miễn thu.

Nếu thuế thu nhập cá nhân chỉ luôn bảo vệ quan điểm điều tiết thu nhập mà quên vai trò đòn bẩy kinh tế thì chưa hiểu đầy đủ vai trò của thuế. Do vậy, cần phân biệt tầm quan trọng khác nhau giữa TTCK ( là thị trường vốn rất cần cho nền kinh tế đang tăng trưởng nóng) và thị trường bất động sản (là thị trường đầu tư sinh lời). Nếu chỉ đứng trên quan điểm điều tiết, điều này sẽ làm chùn tay những người muốn tham gia TTCK

Thị trường đi xuống cũng có mặt tích cực của nó. Đó là một sự phản hồi rõ ràng về một thị trường vốn trong cơ chế thị trường và hội nhập, song đòi hỏi phải có những chính sách và cơ chế quản lý phù hợp. Còn nếu chỉ tìm cách khai thác cho nhiều mục đích thu lợi thì nó sẽ khó có điều kiện phát triển. TTCK Việt Nam đã có mức phát triển vượt bậc trong năm 2007, nhưng so với quy mô và nhiệm vụ phát triển thị trường vốn đến năm 2010 - 2020 của Chính phủ thì TTCK cần phải được những cơ chế đặc biệt và đủ mạnh để đạt được mục tiêu này. Qua quan sát các chính sách và điều hành trong những năm qua, tôi thấy có nhiều điểm thiếu nhất quán và đồng bộ.

            Hai là, Vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, việc chọn thời điểm và xác định giá chào bán cổ phần ra công chúng thường được tính toán làm sao có lợi nhất cho doanh nghiệp hay cổ đông hiện tại. Tuy nhiên, đối với doanh nghiệp nhà nước, lợi ích của doanh nghiệp và mục tiêu phát triển kinh tế chung cần được cân đối. Để đạt được điều đó, Chính phủ cần quyết tâm thực hiện lộ trình cổ phần hóa đã vạch ra. Giá chào bán cổ phần ra công chúng cần được tính toán hợp lý hơn, căn cứ vào khả năng sinh lợi thực sự của doanh nghiệp, để khuyến khích người dân tham gia. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân nhờ đó sẽ được huy động tối đa vào phát triển kinh tế thay vì chảy vào những kênh khác kém hiệu quả, không có lợi cho phát triển kinh tế và xã hội.

Việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ quan trọng là chuyển đổi cơ chế sở hữu và quản lý sang công ty cổ phần còn việc bán để thu vốn cho ngân sách không nhất thiết phải thu ngay một lượng lớn. Do vậy, nếu việc IPO chỉ bán một phần nhỏ (dưới 10%) và lộ trình bán có thể kéo dài nhiều lần trong 3 - 5 năm thì nguồn cung cũng không tăng đột biến mà nhiệm vụ chuyển đổi doanh nghiệp cũng hoàn thành.

Quy mô TTCK Việt Nam vẫn còn nhỏ thì việc cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn, đưa các công ty này lên sàn sẽ tạo nên một thị trường lớn hơn. Khi TTCK có đủ độ lớn, đủ tính thanh khoản thì các quỹ đầu tư nước ngoài sẽ đưa vào danh mục đầu tư của mình theo nguyên tắc phân chia rủi ro theo địa lý, ngành nghề... Tất nhiên việc định giá khi bán cổ phần phải được tính toán hợp lý chứ không nên đưa giá bán lên quá cao sẽ là "lợi bất cập hại". Lộ trình thực hiện cũng phải được xem xét kỹ hơn để thị trường không có phản ứng tiêu cực với điều đó. Theo tôi, quý 2 năm nay TTCK sẽ bắt đầu tăng trưởng tốt hơn. Tuy nhiên, sự tăng trưởng năm nay cũng phụ thuộc nhiều vào các chính sách mới của Nhà nước và chỉ số lạm phát đứng ở mức nào

Ba là, Ngân hàng Nhà nước cần có dự báo tốt về nguồn ngoại tệ đổ vào TTCK và giải quyết đúng đắn trong mối quan hệ với lạm phát. Nếu có bước dự đoán đúng thì NHNN có thể phát hành trái phiếu thu tiền đồng để mua USD của NĐT nước ngoài, điều này giúp NĐT có tiền để mua chứng khoán mà không tăng lượng cung tiền gây lạm phát... Từ đó có thể nói rằng, việc TTCK phát triển như thế nào là tùy thuộc vào các cơ quan hoạch định chính sách.

Bốn là, Cơ quan quản lý là người điều phối thị trường, giữ nhịp cho thị trường phát triển nên các chính sách phải có sự ổn định. Phải giải quyết được những vướng mắc hiện nay để tạo dựng niềm tin NĐT trong và ngoài nước. Tâm lý NĐT đang cực thấp nên phải "tiêm" vào một "liều thuốc hồi sinh". Vấn đề quan trọng là khơi thông được nguồn tiền để đầu tư vào TTCK. TTCK phát triển mạnh lên thì nguồn vốn từ các nơi khác như bất động sản, vàng... sẽ tự động chảy về. Khi đó, thị trường bất động sản cũng sẽ tự lắng dịu mà không cần Nhà nước phải có những chính sách kiềm chế. Các thị trường như bình thông nhau nên sự điều tiết sẽ diễn ra tự nhiên hơn mà không cần cơ quan quản lý nhà nước phải can thiệp quá sâu.

Lượt xem: 4

CHỦ ĐỘNG SỬ DỤNG VÀ ỨNG PHÓ VỚI PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI

1. Xu hướng sử dụng và hệ lụy của sử dụng phòng vệ thương mại Cùng với xu hướng tự do hóa thương mại, trong những năm gần đây, xu thế bảo hộ thông qua sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cũng đang diễn biến theo nhiều cách thức, mức độ khác nhau, kể cả tại một số nền kinh tế lớn. Về nguyên tắc, để bảo hộ mậu dịch, các nước có thể dùng phối hợp các công cụ bảo hộ thuế quan và phi thuế quan. Chúng có thể có nhiều hình thức, bao gồm: Thuế và các hàng rào phi thuế quan. Nhưng xu hướng hiện nay là ngày càng giảm các hàng rào thuế quan và gia tăng các công cụ phi thuế quan, bao gồm: cấm nhập khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; giấy phép nhập khẩu; giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp, tự nguyện hạn chế xuất khẩu, yêu cầu nội địa hóa, lệnh cấm vận, giá nhập khẩu tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, giá xuất khẩu tối thiểu và giá hành chính; các yêu cầu thanh toán trước; tiền gửi nhập khẩu trước; yêu cầu giới hạn tiền mặt; trả trước thuế hải quan; tỷ giá hối đoái đa dạng; quản lý ngoại hối; thuế nội địa đối với nhập khẩu (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng); biện pháp về hành chính kĩ thuật (bao gồm hình thức hàng đổi hàng, đặt cọc, thủ tục hải quan, mua sắm chính phủ, quy tắc xuất xứ, chất lượng, an toàn hoặc kích thước, kí hiệu, thử nghiệm và các phương pháp thử nghiệm, đóng gói, đóng dấu, và các yêu cầu dán nhãn cho một sản phẩm)…   Các biện pháp phòng vệ thương mại là tên gọi chung của ba nhóm biện pháp: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Các biện pháp này được ghi nhận cả trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và trong các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực được các quốc gia trên thế giới ký kết. Theo đó, các quốc gia có quyền tăng thuế nhập khẩu hoặc áp dụng một số biện pháp hạn chế nhập khẩu phù hợp, nếu xác định rằng việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu là nguyên nhân gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Để đi đến quyết định áp dụng một biện pháp phòng vệ thương mại, các hiệp định của WTO quy định nước nhập khẩu phải tiến hành một quy trình điều tra, phân tích trên cơ sở thu thập thông tin từ các bên liên quan, trong đó có thông tin từ các doanh nghiệp sản xuất trong nước, doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của nước ngoài và doanh nghiệp nhập khẩu. Quy trình điều tra này có thể kéo dài từ 12 đến 18 tháng. Nếu các phân tích cho thấy các điều kiện áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại được đáp ứng, nước nhập khẩu mới có thể đưa ra quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Tại Việt Nam, quy trình điều tra này được cụ thể hóa trong Luật Quản lý ngoại thương, Nghị định số 10/2018/NĐ-CP và các văn bản pháp lý liên quan. Mặt khác, để bảo đảm hiệu quả của các biện pháp phòng vệ thương mại, các quốc gia áp dụng biện pháp cũng tích cực giám sát, theo dõi sự biến động của luồng hàng hóa nhập khẩu để phát hiện các hành vi gian lận nhằm lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Trong trường hợp phát hiện hành vi gian lận, nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại có thể điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại để mở rộng áp dụng phạm vi áp dụng cho hàng hóa tương tự của quốc gia mà tại đó hành vi gian lận xảy ra, gây ảnh hưởng liên đới tới các doanh nghiệp xuất khẩu chân chính. Nghiên cứu mới đây của WTO cho thấy, thời gian qua, các biện pháp hạn chế/bảo hộ thương mại được các thành viên WTO áp dụng đã gia tăng một cách kỷ lục. Kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008, thế giới đã có thêm 4.000 biện pháp bảo hộ thương mại mới được áp dụng gồm: Biện pháp phòng vệ thương mại, tăng thuế, rào cản địa phương, trợ cấp phí xuất khẩu, và các phân biệt đối xử. Năm 2016, các nước thành viên WTO đã điều tra 345 vụ phòng vệ thương mại, tăng 24,5% so với năm 2015, với 300 vụ chống bán phá giá, 34 vụ chống trợ cấp và 11 vụ việc điều tra tự vệ. Riêng trong giai đoạn từ tháng 10/2018 đến tháng 10/2019, tổng giá trị thương mại bị ảnh hưởng do việc áp dụng các biện pháp này dự tính khoảng 747 tỷ USD. Trong số hơn 2.800 biện pháp hạn chế thương mại ghi nhận qua các thời kỳ kiểm tra chính sách thương mại từ tháng 10/2008 đến nay, mới chỉ có 25% đã được bãi bỏ. Tại Mỹ, để bảo vệ lợi ích của mình, nước này đang áp dụng 80% trong số 31.000 biện pháp “bảo hộ mậu dịch” trên thế giới hiện nay. Việc bảo hộ mậu dịch có tác động hai mặt: Một mặt, bảo hộ đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong nước và khuyến khích phát triển một số ngành nghề; hạn chế tiêu dùng; bảo đảm an toàn sức khỏe con người, động thực vật, môi trường, cân bằng cán cân thanh toán và đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước; tăng việc làm mới và phân phối lại thu nhập… Mặt khác, bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng (hay cung cấp dịch vụ) ở mức có lợi nhất cho họ; giảm động lực áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, ảnh hưởng đến sự phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế xét theo mục tiêu dài hạn. Các hàng rào phi thuế quan đôi khi cũng làm nhiễu tín hiệu của thị trường mà người sản xuất dựa vào đó để ra quyết định. Tín hiệu này chính là giá thị trường. Khi bị làm sai lệch, nó sẽ phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thật sự chỉ dẫn sai việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế. Không những thế, các hàng rào phi thuế quan thường đòi hỏi chi phí của Nhà nước để duy trì hệ thống điều hành kiểm soát thương mại phi thuế quan. Việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho Nhà nước, mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đãi đặc quyền như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế. 2. Thực tế ứng phó và sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại ở Việt Nam Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại tự do với 60 đối tác thương mại thông qua việc ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định FTA với Liên minh châu Âu (EVFTA). Đối với hàng hóa nội địa, mức cắt giảm thuế quan hầu hết về 0% đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có độ mở cửa cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, quá trình mở cửa, dù theo lộ trình, với các đối tác thương mại lớn có thể làm cho một số ngành sản xuất trong nước không thích ứng kịp với diễn biến cạnh tranh phức tạp, thậm chí không lành mạnh (như bán phá giá, nhận trợ cấp) của hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Đồng thời, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng bị các nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với tần suất cao. Các vụ kiện này không chỉ diễn ra với hàng hóa có thế mạnh xuất khẩu mà với ngay cả các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu thấp. Việc này có thể gây ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp tới các ngành sản xuất, xuất khẩu và gián tiếp đặt ra các gánh nặng về kinh tế, xã hội. Cùng với sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu trong thời gian qua, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với các vụ việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài. Theo VCCI, tính đến tháng 10/2015, đã có hơn 94 vụ kiện chống bán phá giá, kiện chống trợ cấp, kiện tự vệ đối với hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường nước ngoài. Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính hết năm 2018, đã có 144 vụ phòng vệ thương mại do 18 quốc gia và vùng lãnh thổ khởi xướng điều tra, áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, số liệu 3 năm gần đây cho thấy số lượng điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hàng hoá xuất khẩu Việt Nam đang tăng nhanh, cụ thể: Theo Bộ Công Thương, tính đến hết tháng 12/2021, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là đối tượng của 209 vụ việc điều tra liên quan đến phòng vệ thương mại. Riêng trong năm 2021 có 08 vụ việc mới do nước ngoài khởi xướng, bên cạnh nhiều vụ việc cũ đang tiếp tục được điều tra và các vụ việc rà soát hằng năm, rà soát cuối kỳ.  Các con số tương tự đến hết năm 2022 là 226 vụ việc điều tra và 17 vụ việc mới; đến hết năm 2023 là 242 vụ và 15 vụ việc mới. Tính đến tháng 6/2024 hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với 252 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ 24 thị trường và vùng lãnh thổ. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia thường xuyên sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Theo thống kê của WTO, tính đến hết tháng 12/2022, Hoa Kỳ đã điều tra 53 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, chiếm khoảng 25% tổng số vụ việc nước ngoài điều tra với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2022, Hoa Kỳ đã khởi xướng điều tra mới 12 vụ việc, trong đó chủ yếu là điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại (11 vụ). Các mặt hàng bị điều tra gồm các sản phẩm thép, pin năng lượng mặt trời, tủ gỗ, ghim dập, thép dây... Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng tiến hành rà soát một số biện pháp phòng vệ thương mại đã áp dụng trước đó, như rà soát hành chính thuế chống trợ cấp với lốp xe, rà soát hành chính thuế chống bán phá giá với cá tra, cá basa. Nguyên nhân của việc gia tăng số lượng các vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam gắn với hệ quả của quá trình đẩy nhanh tự do hoá thương mại của Việt Nam với thế giới và cả xu thế bảo hộ thương mại khi xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc bùng nổ. Bởi lẽ, để bảo đảm hiệu quả của các biện pháp phòng vệ thương mại, các quốc gia áp dụng biện pháp cũng tích cực giám sát, theo dõi sự biến động của luồng hàng hóa nhập khẩu để phát hiện các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Trong trường hợp phát hiện hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, nước áp dụng biện pháp có xu hướng tiến hành các cuộc điều tra lẩn tránh để mở rộng phạm vi áp dụng đến hàng hóa tương tự của quốc gia mà tại đó hành vi lẩn tránh xảy ra, gây ảnh hưởng liên đới tới các doanh nghiệp xuất khẩu chân chính. Các vụ việc mà Hoa Kỳ nhắm vào hàng hóa của Trung Quốc nghi ngờ chuyển tải qua nước thứ ba, trong đó có Việt Nam, để lẩn tránh các mức thuế cao do Hoa Kỳ áp dụng là ví dụ điển hình. Mặc dù nguyên nhân lớn nhất của việc gia tăng các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại là xu thế bảo hộ thương mại, còn có các nguyên nhân khác như sự thiếu kiến thức về pháp luật phòng vệ thương mại nói chung cũng như pháp luật về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại nói riêng của các doanh nghiệp Việt Nam, thiếu thông tin về các vụ việc phòng vệ thương mại đang áp dụng, chạy theo lợi nhuận trước mắt... Bên cạnh đó, có thể có một số doanh nghiệp cá biệt lợi dụng chính sách đầu tư, chính sách thuận lợi hóa thương mại đối với các mặt hàng xuất khẩu để thực hiện các hành vi gian lận thương mại. Xu hướng mới trong bảo hộ thương mại của các nước có thể sẽ khiến trong tương lai gần hàng hóa Việt Nam xuất khẩu (như vào Hoa Kỳ) được lợi thế về giá; tuy vậy, có thể  thúc đẩy việc lợi dụng và giả mạo xuất xứ Việt Nam, kéo theo việc Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc chiến và bị áp dụng các biện pháp thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam… Các vụ kiện chống bán phá giá cá tra - basa, tôm, chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với thép cuộn, thép chống ăn mòn do Mỹ khởi xướng; chống trợ cấp dây đồng, ống thép không gỉ do Ấn Độ khởi xướng; biện pháp tự vệ với thép nhập khẩu vào EU... khiến Việt Nam gặp khó khăn trên thị trường quốc tế. Để giảm thiểu số lượng vụ việc hàng hóa Việt Nam bị điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại cũng như tác động tiêu cực mà các vụ việc này gây ra đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, các cơ quan quản lý cần có các biện pháp tổng thể và lâu dài; trước mắt, tập trung vào ngăn chặn hiện tượng Việt Nam bị lợi dụng làm điểm trung chuyển để xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba, đặc biệt tránh bị rơi vào hệ lụy của xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc, bảo vệ uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, hướng tới xuất khẩu bền vững; đồng thời, giảm thiểu tình trạng các doanh nghiệp đầu tư không thực chất, chỉ thực hiện các giai đoạn gia công đơn giản, không mang lại giá trị gia tăng đáng kể vào Việt Nam; tiếp tục quá trình đổi mới toàn diện, đẩy mạnh chủ động hội nhập quốc tế và bảo đảm thực thi có hiệu quả cam kết của các FTA mà Việt Nam đang và sẽ tham gia. Đồng thời, Việt Nam cũng cần đa dạng hóa thị trường, chủ động nhận diện, thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp đủ năng lực vượt qua các hàng rào kỹ thuật từ các đối tác xuất khẩu; cũng như, nhận thức đúng đắn và coi trọng xây dựng hàng rào kỹ thuật bảo vệ thị trường và lợi ích quốc gia, cộng đồng doanh nghiệp nội địa; tăng cường năng lực đối phó với những vụ kiện phòng vệ thương mại, đồng thời, linh hoạt sử dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống bán trợ giá để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà sản xuất trong nước, phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp biết và vận dụng… Ngày 04/7/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 824/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ. Ngày 31/12/2019, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 119/NQ-CP về một số biện pháp cấp bách nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng chống gian lận xuất xứ, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp. Thực hiện các chủ trương nói trên, thời gian qua, các đơn vị liên quan trong và ngoài Bộ Công Thương đã chủ động rà soát, xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Trong năm 2022, Bộ Công Thương đã phối hợp cùng với các Bộ, ngành liên quan triển khai có hệ thống hàng loạt các hoạt động, như cảnh báo sớm các mặt hàng có nguy cơ bị nước ngoài điều tra phòng vệ thương mại; hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu xử lý ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại cụ thể; tham gia cung cung cấp, giải trình các chính sách của Chính phủ bị cáo buộc trợ cấp; tham gia phản biện pháp lý đối với các vi phạm, khả năng vi phạm cam kết quốc tế của cơ quan điều tra nước ngoài; tiến hành các hoạt động giải quyết tranh chấp tại WTO; thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế để góp phần nâng cao năng lực phòng vệ thương mại. Trên cơ sở danh sách cảnh báo, các cơ quan chức năng của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã phối hợp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xác minh việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo xuất xứ khi thông quan, đăng ký đầu tư nước ngoài... Đồng thời, các Hiệp hội, doanh nghiệp liên quan có thể chủ động xây dựng chiến lược sản xuất, xuất khẩu, chuẩn bị nguồn lực, xây dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp vụ việc xảy ra. Bộ Công Thương cũng đã phối hợp với Tổng cục Hải quan và cơ quan điều tra nước ngoài làm rõ các cáo buộc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin nhằm chống lẩn tránh phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; đưa ra các khuyến nghị cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nhằm tránh bị các nước khác điều tra phòng vệ thương mại, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Các nỗ lực của Việt Nam đã được một số đối tác ghi nhận và đánh giá cao. Trong năm 2023, Bộ Công Thương tiếp tục triển khai các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 01/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại” và Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ” nhằm đưa ra những dự báo từ sớm, từ xa những mặt hàng xuất khẩu có nguy cơ bị nước ngoài tiến hành điều tra phòng vệ thương mại. Trên cơ sở những dự báo này, các ngành sản xuất trong nước có thêm thời gian chuẩn bị và chủ động hơn trong việc hợp tác với các cơ quan điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, từ đó, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp, hạn chế và giảm đáng kể những tác động tiêu cực của các biện pháp phòng vệ thương mại mà nước ngoài áp dụng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, đến hết năm 2023, Việt Nam đã tiến hành điều tra tổng cộng 27 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, trong đó có 18 vụ việc chống bán phá giá, 01 vụ việc chống trợ cấp, 06 vụ việc tự vệ và 02 vụ việc chống lẩn tránh. Trong năm 2023, Bộ Công Thương tiếp nhận và xử lý 05 hồ sơ đề nghị điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá của ngành sản xuất trong nước, trong đó đã ban hành quyết định khởi xướng điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá với 02 vụ việc, đối với 03 hồ sơ còn lại, Bộ Công Thương đang tiếp tục đề nghị ngành sản xuất trong nước hoàn thiện hồ sơ theo đúng quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã hoàn thành rà soát với 07 vụ việc và triển khai điều tra, rà soát với 04 vụ việc rà soát các biện pháp phòng vệ thương mại đang được áp dụng theo quy định để đảm bảo các biện pháp được áp dụng đúng đối tượng, đúng mức độ và đúng điều kiện, trong đó có 04 vụ việc rà soát nhà xuất khẩu mới, 04 vụ việc rà soát hằng năm và 03 vụ việc rà soát cuối kỳ. Bộ Công Thương cũng theo dõi sát diễn biến giá cũng như tình hình nhập khẩu và rà soát định kỳ để điều chỉnh biện pháp phòng vệ thương mại cho phù hợp thực tiễn, tránh hiện tượng hàng hóa tăng giá do phòng vệ thương mại hay giảm động lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của các cơ quan chức năng trong quá trình xử lý các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài đã đem lại những kết quả tích cực trong việc chứng minh doanh nghiệp không bán phá giá hay Chính phủ không trợ cấp, không can thiệp vào thị trường để tạo lợi thế bất bình đẳng cho doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường như Hoa Kỳ, Canada, Australia, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia… Theo tính toán, những ngành sản xuất đang được bảo vệ bởi các biện pháp phòng vệ thương mại ước tính đóng góp khoảng 6,3% GDP của cả nước. Nhờ đó, các doanh nghiệp xuất khẩu không bị áp thuế phòng vệ thương mại hoặc bị áp thuế ở mức thấp, góp phần giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các biện pháp phòng vệ thương mại đã và đang áp dụng góp phần bảo vệ công ăn việc làm của hàng trăm nghìn người lao động trong các lĩnh vực, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và hỗ trợ cân bằng cán cân thanh toán quốc tế; góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước hàng nghìn tỉ đồng; giảm bớt quy mô nhập khẩu và cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định giá đầu vào cho một số ngành sản xuất trong nước. Về triển vọng, điểm cần nhấn mạnh là Việt Nam cần chú ý chủ động và hài hoà hơn giữa đối phó với các biện pháp phòng vệ thuơng mại quốc tế, với sử dụng hợp lý, hiệu quả các công cụ phòng vệ thương mại hợp pháp trong khuôn khổ WTO và các FTA mà Việt Nam đang và sẽ là thành viên, để vừa gia tăng xuất khẩu, vừa bảo vệ các ngành sản xuất và việc làm trong nước, đồng thời giảm mức độ phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu. Thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện về cơ sở pháp lý đối với công cụ phòng vệ thương mại; công khai thông tin, hỗ trợ tìm kiếm, tập hợp số liệu chính thức thuộc kiểm soát của cơ quan Nhà nước, đồng thời, có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất trong nước thông qua việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ trên nguyên tắc công khai, minh bạch, tuân thủ quy định pháp luật và phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam...; tăng cường ngăn chặn hiện tượng Việt Nam bị lợi dụng làm điểm trung chuyển để xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba, bảo vệ uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, hướng tới xuất khẩu bền vững. Đồng thời, chú ý bồi dưỡng và cập nhật thông tin, kiến thức, nhận thức, ý thức và năng lực cho cộng đồng doanh nghiệp Việt trong việc nâng cao sức đề kháng và sự chủ động đối phó và sử dụng công cụ phòng vệ thương mại, vượt lên tâm lý ngại kiện, hợp tác tương hỗ lẫn nhau, tạo dựng doanh nghiệp mạnh nhằm kiến tạo lợi thế quốc gia và bảo vệ hiệu quả lợi ích cộng đồng, cũng như lợi ích sát sườn của bản thân doanh nghiệp. Tác giả: TS. Nguyễn Minh Phong, Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên truyền lý luận, Báo Nhân dân (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán tháng 12/2024) 

TÁI CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Sau tiếng cồng khai trương phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên trong năm Nhâm Thìn của Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, những tín hiệu lạc quan cho các mã cổ phiếu giao dịch đã bao trùm trên bảng điện tử, nối tiếp những tín hiệu về một thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ “xanh” hơn trong năm 2012 kể từ sau khi Bộ Tài chính công bố một trong số các biện pháp “cứu” TTCK là Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán (CTCK)   Công ty chứng khoán- Phân loại khốc liệt?                 Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán được Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành ngày 10/1/2012 tại Quyết định số 62/QĐ-BTC. Đây được coi là một mắt xích trong chuỗi giải cứu TTCK trong năm 2012 và những năm tiếp theo.                 Đề án này ra đời nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro của các công ty chứng khoán. Trên cơ sở đó, từng bước thu hẹp số lượng các công ty chứng khoán, đồng thời tăng cường khả năng, hiệu quả quản lý, giám sát đối với hoạt động công ty chứng khoán; mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo lộ trình hội nhập đã cam kết.                 Việc phân loại các CTCK để tái cấu trúc sẽ dựa trên cơ sở Thông tư 226 của BTC quy định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng các chỉ tiêu an toàn tài chính để tiến hành rà soát phân nhóm các CTCK theo mức độ rủi ro giảm dần, dựa trên 2 chỉ tiêu: Vốn khả dụng/tổng rủi ro (bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, và rủi ro hoạt động) và tỷ lệ lỗ lũy kế/vốn điều lệ. Theo đó, nhóm 1 (nhóm bình thường) bao gồm các TCCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro trên 150% và có lãi hoặc lỗ lũy kế dưới 30% VĐL; nhóm 2 (nhóm kiểm soát) gồm các CTCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 150% tới trên 120% và có lỗ lũy kế từ 30% đến 50% VĐL; nhóm 3 (nhóm kiểm soát đặc biệt) gồm các CTCK có tỉ lệ vốn  khả dụng/tổng rủi ro dưới 120% và có lỗ lũy kế từ trên 50% VĐL.                 Theo phát biểu của người đứng đầu Ủy ban chứng khoán (UBCK) thì việc phân loại theo Thông tư 226 thực sự là cuộc chiến “khốc liệt” và ngày từ trước khi Đề án Tái cấu trúc CTCK được ban hành, Ủy ban này đã tiến hành làm việc với nhiều công ty để ra soát, nắm lại thực trạng tài chính làm căn cứ để tiến hành phân loại.                 Theo đề án thì ngay trong quý I/2012 (đến tháng 4/2012), những công ty chứng khoán có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro không đảm bảo quy định của Thông tư 226 sẽ phải thực hiện chế độ báo cáo hằng tuần, thậm chí hằng ngày (đối với những CTCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 120%). Nếu phát hiện CTCK chưa thực hiện tách biệt tài sản của NĐT khi đoàn kiểm tra phát hiện được, CTCK buộc phải thực hiện tách bạch trong thời hạn tối đa 2 tháng. Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam kiểm soát chặt chẽ vấn đề thanh toán giao dịch của CTCK. Còn trong trường hợp liên tục vi phạm thiếu tiền thanh toán, lạm dụng tiền gửi của khách hàng, xem xét rút phép nghiệp vụ môi giới.                 Các biện pháp tái cấu trúc tiếp theo trong giai đoạn những tháng còn lại của năm 2012 và sau năm 2012 cơ quan quản lý sẽ thực hiện các biện pháp mạnh tay hơn bao gồm cả kỹ thuật và hành chính. “Chúng tôi kết hợp 2 giải pháp hành chính và kỹ thuật, trong đó chủ yếu là biện pháp kỹ thuật. Đặt CTCK vào tình trạng kiểm soát thì buộc các đơn vị này phải lo tái cấu trúc: Khoanh nợ, bán tài sản xấu, giảm rủi ro, thu hẹp hoạt động. Khi đã vào nhóm kiểm soát đặc biệt thì CTCK phải có các biện pháp hành chính như họp ĐHCĐ rút nghiệp vụ môi giới”, Chủ tịch UBCK Vũ Bằng cho biết.                 Theo biện pháp được triển khai từ sau năm 2012, đề án đưa ra là cần tăng cường năng lực quản trị và hoạt động của các công ty chứng khoán dựa trên ba trụ cột chính: Quy định về mức độ đủ vốn; Quy định về hướng dẫn thông lệ khuôn khổ quản lý rủi ro cho các công ty chứng khoán; Đánh giá, xếp hạng các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo thông lệ quốc tế từ đó phân loại và giám sát các tổ chức này.                 Đề án cũng đặt ra vấn đề là thu hẹp số lượng CTCK. Vấn đề là thu hẹp đến mức nào thì chưa có đề xuất cụ thể. Với con số hơn 100 CTCK-luôn được cho là quá nhiều như hiện nay thì bao nhiêu CTCK sẽ là phù hợp với TTCK Việt Nam sau khi Đề án tái cấu trúc TTCK chính thức được triển khai? Tuy nhiên, việc giảm bớt số lượng CTCK cũng không hề đơn giản. Bởi theo nhiều nhận định thì tư duy nhiệm kỳ, vấn đề lợi ích nhóm sẽ là rào cản cho vấn đề này.                 “Chứng khoán 2012 sẽ tiền hung, hậu cát” Đây là nhận định của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ trong thông điệp đầu năm mới khi được báo giới hỏi về sự phát triển của TTCK trong năm 2012. Người đứng đầu Bộ Tài chính cho rằng năm nay kinh tế thế giới và Việt Nam vẫn gặp khó khăn. Nhưng “cái khó sẽ ló cái khôn", "tiền hung hậu cát" (khởi đầu khó khăn, kết thúc tốt đẹp). Cùng với các giải pháp quyết liệt về kỹ thuật, Bộ trưởng khẳng định cơ quan quản lý sẽ đảm bảo cho thị trường ngày một thông suốt, hiện đại và minh bạch hơn. "Các nhà đầu tư yên tâm với việc tin vào Chính phủ, tin vào các chính sách tái cấu trúc thì TTCK sẽ vượt qua khó khăn, phát triển hơn năm 2011". Bày tỏ niềm tin rằng 2012 sẽ là năm “khởi sắc” khi TTCK được tái cơ cấu, ông Huệ cho rằng việc đầu tiên cần làm là “trả lại tên cho chứng khoán” - một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, chứ không để ngân hàng “lấn sân” như suốt thời gian qua. Tiếp đến sẽ sửa luật Chứng khoán, xử lý các công ty chứng khoán (CTCK) thua lỗ, yếu kém theo đề án tái cấu trúc đã được phê duyệt. Theo ông Huệ, TTCK là phong vũ biểu đo lường kinh tế vĩ mô, ngược lại, kinh tế vĩ mô mà tốt thì cũng là yếu tố thúc đẩy TTCK ổn định, tăng trưởng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động được nhiều vốn trên thị trường.                 Bên cạnh những hỗ trợ từ góc độ vĩ mô (kiểm chế lạm phát, tài khóa hiệu quả, linh hoạt…) Bộ trưởng Vương Đình Huệ cũng khẳng định, ngoài đề án Tái cấu trúc các CTCK đã ban hành, hiện nay các cơ quan chức năng, cùng với UBCKNN đang triển khai quyết liệt chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020. Riêng với các doanh nghiệp, sẽ có giải pháp đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa, hỗ trợ các doanh nghiệp để tăng hiệu quả sản xuất - cạnh tranh. Đối với 3 lĩnh vực cụ thể mà Bộ có thể trực tiếp hỗ trợ (tín dụng, thuế, phát triển trái phiếu doanh nghiệp), Bộ trưởng nhấn mạnh tới việc thúc đẩy hoạt động của các cơ quan định hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Theo đó, đây sẽ là bước đi quan trọng để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và là thành tố để phát triển TTCK trong tương lai. “Tôi nghĩ rằng, với các biện pháp ngắn hạn, trung và dài hạn quyết liệt và đồng bộ như vậy và năm 2012 là năm đánh dấu việc tái cấu trúc mạnh mẽ nền kinh tế trong đó có tái cấu trúc đầu tư công, tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, tái cấu trúc TTCK, thị trường sẽ vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, đi vào ổn định và khởi sắc”, Bộ trưởng Huệ dự báo.                 Một thông tin quan trọng, theo ông Huệ, ngay trong quý 2/2012, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ về việc thành lập Sở Giao dịch chứng khoán (GDCK) VN trên cơ sở sáp nhập 2 Sở GDCK Hà Nội và TP.HCM, tạo ra một thị trường giao dịch chứng khoán thống nhất nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả./.  

TÍN DỤNG XANH: CẦN MỘT CHIẾN LƯỢC TỔNG THỂ, KẾT NỐI VỚI CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI

Việt Nam đã có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ khoảng 650 nghìn tỷ đồng. Trong đó, tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%...   Quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng xanh tăng trưởng khá qua các năm   Theo Hiệp hội thị trường tín dụng (Loan market Association) và Hiệp hội thị trường Tín dụng châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Loan Market Association), tín dụng xanh là những khoản tín dụng nhằm hỗ trợ các dự án sản xuất, kinh doanh không/ít gây rủi ro tới môi trường, góp phần bảo vệ sinh thái chung, là biểu hiện của nền tài chính hướng đến sự phát triển bền vững. Danh mục xanh bao gồm: Năng lượng tái tạo; sử dụng năng lượng hiệu quả; giao thông xanh; sản phẩm, các công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường và/hoặc thích nghi với nền kinh tế; quản lý nước bền vững và xử lý nước thải; tòa nhà xanh; nông lâm nghiệp bền vững; ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm.   Tại Việt Nam, để hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh nói chung và mở rộng hoạt động tín dụng xanh nói riêng, Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương ban hành nhiều văn bản theo hướng không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý chung để bộ ngành, địa phương, ngành nghề triển khai nhằm tiến tới mục tiêu Net Zero năm 2050. Trong đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định, tín dụng xanh được cấp cho các dự án đầu tư: Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu; quản lí chất thải; xử lí ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường; phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; tạo ra lợi ích khác về môi trường.   Thực hiện Nghị quyết của Đảng, chủ trương của Chính phủ trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động và sáng tạo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về tiền tệ, tín dụng ngân hàng nói chung, nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, đối phó với tác động tiêu cực của thiên tai, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, phát triển kinh tế tuần hoàn. Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, phát triển nền tảng số, hạ tầng số, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số để phục vụ phát triển kinh tế số, xã hội số, góp phần phát triển bền vững.   Theo Ngân hàng Nhà nước, trong giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Nếu năm 2018, quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với lĩnh vực kinh tế xanh chỉ chiếm 3,33% trong tổng tín dụng của nền kinh tế, đến năm 2022 tăng lên 4,2%. Thời điểm tháng 6/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đạt gần 528.300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với toàn bộ nền kinh tế. Đến nay, dư nợ tín dụng xanh khoảng 650 nghìn tỷ đồng, trong đó tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%...   Bên cạnh đó, giai đoạn năm 2016-2020, Việt Nam đã có 4 đợt phát hành trái phiếu xanh, giá trị 284 triệu USD. Giai đoạn năm 2019-2024, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Nhiều tổ chức tín dụng đã ban hành quy định nội bộ về rủi ro môi trường và tác động xã hội; 80% đến 90% các ngân hàng thương mại đã áp dụng một phần hoặc toàn bộ chỉ số đánh giá môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trong hoạt động.   Thực tiễn hoạt động tín dụng xanh đã được một số ngân hàng đưa vào áp dụng, triển khai và đã đạt được những kết quả khả quan. Theo đó, nhiều ngân hàng như BIDV, Vietcombank, VietinBank, MB đạt tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân lên tới 45%/năm. Hay như SeABank đã được nhiều tập đoàn/tổ chức tài chính quốc tế như IFC, DFC và nhiều quỹ đầu tư quốc tế tài trợ vốn lên tới gần 600 triệu USD để triển khai các chương trình tín dụng xanh, hỗ trợ các hoạt động kinh doanh thuộc các ngành, lĩnh vực thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.   Xây dựng chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh   Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai nhằm thúc đẩy tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đang gặp một số khó khăn. Theo ThS. Dương Văn Bôn, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam chưa có quy định chung về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành, các lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế, làm căn cứ để các tổ chức tín dụng xác định cấp tín dụng xanh cho giai đoạn tới. Khung pháp lý về tín dụng xanh của Việt Nam chưa hoàn thiện, gây ra khó khăn trong việc phát triển hoạt động này trên thực tiễn. Nhiều văn bản pháp lý đang được ban hành về tín dụng xanh, ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước còn chung chung. Nội dung cụ thể về ngân hàng xanh, tín dụng xanh về cơ bản mới chỉ mang tính chất định hướng, khuyến khích các tổ chức tín dụng thực hiện, mà chưa mang tính bắt buộc.     Việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kỹ thuật về môi trường chuyên sâu sẽ là khó khăn cho cán bộ tín dụng của các tổ chức tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng. Đặc biệt là khách hàng trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, với dự án đi vào hoạt động trong thời gian chưa dài, hiệu quả phụ thuộc nhiều vào hợp đồng mẫu. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc giám sát và quản lý rủi ro khi thực hiện cấp tín dụng xanh do còn thiếu cơ sở pháp lý, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường.   TS. Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đánh giá, mặc dù đã có những tín hiệu tích cực trong tăng trưởng tín dụng xanh, ngân hàng xanh, song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Việc phát triển hoạt động ngân hàng xanh tại các tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập do cần nguồn lực rất lớn để triển khai; kiến thức, kinh nghiệm của các cán bộ ngân hàng thực hiện công tác thẩm định và phê duyệt cấp tín dụng liên quan các vấn đề môi trường xã hội nhìn chung còn hạn chế. Một số ngân hàng rất chủ động, tiên phong nhưng số khác lại rất chậm.   Về phía các doanh nghiệp, trong quá trình tiếp cận tài chính xanh, các doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu thông tin về các đơn vị cấp tín dụng xanh; các quỹ tín dụng xanh thường không chấp nhận tài sản bảo đảm, doanh nghiệp cần có bảo lãnh ngân hàng; các dự án quy mô nhỏ khó tiếp cận vốn vay nước ngoài…   Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, đối với tín dụng xanh, hiện Ngân hàng Nhà nước gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do hệ thống ngân hàng cần được hướng dẫn của các cơ quan, bộ ngành liên quan đến danh mục phân loại xanh để các tổ chức tín dụng có căn cứ khi cấp tín dụng. Bên cạnh đó, đầu tư vào những lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch… đòi hỏi nguồn vốn với giá trị rất lớn và kì hạn dài. Đây chính là những khó khăn của hệ thống ngân hàng khi nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng rất ngắn hạn.   Việt Nam là nước chịu tác động lớn bởi biến đổi khí hậu, tình hình bão lũ thiên tai vừa qua đặt ra yêu cầu cho các cơ quan, bộ ngành phải tập trung rà soát những giải pháp để ứng phó hiệu quả. Ngành ngân hàng đã ban hành rất nhiều các văn bản hướng dẫn để đánh giá về rủi ro và môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Tuy nhiên, việc chưa có danh mục về phân loại xanh khiến Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn. Do đó, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục quan tâm thực hiện triển khai theo đúng kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt, khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục phân loại xanh, Ngân hàng Nhà nước sẽ hướng dẫn các tổ chức tín dụng cấp tín dụng xanh và theo dõi thực hiện, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh.   Việt Nam đặt mục tiêu cuối năm 2025 tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh đạt 25% so với hiện nay; đạt 30% đến 35%/năm cho giai đoạn năm 2025-2030. Tương ứng tỷ lệ trên là mục tiêu tỷ trọng tín dụng xanh trong nền kinh tế từ 4,6% tăng lên 10% vào cuối 2025 và 20% vào cuối năm 2030. Đây là những thách thức rất lớn, mục tiêu khó khăn đối với ngành ngân hàng.   Tại diễn đàn Tài chính xanh năm 2024, Phó Giám đốc Ban kinh doanh vốn và tiền tệ Ngân hàng BIDV Nguyễn Bá Sơn khuyến nghị, cần sớm ban hành quy định phân loại và xác nhận dự án xanh, xem xét sự tương đồng giữa các tiêu chí xanh của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế; các chính sách ưu đãi để thu hút nhà đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực về môi trường và xây dựng hệ thống dữ liệu về môi trường. Cùng với đó, doanh nghiệp cần được nâng cao nhận thức và khuyến khích thực hiện chuyển đổi xanh; duy trì, mở rộng các cơ chế hỗ trợ chi phí phát hành, tư vấn kỹ thuật và khuyến khích các doanh nghiệp đầu ngành tiên phong phát hành chứng khoán xanh.   Các chuyên gia cho rằng, để phát triển tín dụng xanh, trước tiên là phải hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng các tiêu chí xác định dự án xanh. Đây là cơ sở để các tổ chức tín dụng làm căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh cho các dự án. Tiếp đó, Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh một cách hài hòa, hiệu quả giữa các kênh dẫn vốn, gắn với các định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; có cơ chế thu hút nguồn vốn cho đầu tư xanh bằng chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí, lãi suất và hỗ trợ các chi phí liên quan đến phát hành trái phiếu xanh, cung cấp tín dụng xanh. Các chính sách liên quan đến thị trường tài chính xanh cần sớm được ban hành hoặc lồng ghép với những chính sách về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng và ứng phó biển đổi khí hậu...   Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, từ nay đến năm 2040, Việt Nam cần đầu tư bổ sung 368 tỉ USD, tương đương khoảng 6,8% GDP mỗi năm cho lộ trình chống chịu và đưa phát thải ròng về 0.

ĐỘNG LỰC VÀ THÁCH THỨC VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Nền kinh tế đã có những bước phục hồi mạnh mẽ trong 10 tháng năm nay. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ trên 7% được đánh giá là khả thi. Tuy nhiên, diễn biến địa chính trị thế giới còn nhiều yếu tố khó lường, kinh tế thế giới chưa trở lại đà tăng trưởng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, nội lực nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Do đó, để sức hồi phục của nền kinh tế mạnh mẽ và bền vững trong năm nay và năm sau, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ và chú trọng thúc đẩy hiệu quả các động lực tăng trưởng.   Triển vọng tích cực song còn nhiều thách thức   Điểm đáng chú ý nhất trong bức tranh kinh tế từ đầu năm đến nay là chuyển biến ngày càng tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi nhanh, là động lực dẫn dắt cho tăng trưởng. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10 tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 10 đạt 51,2 điểm, tăng so với 47,3 điểm của tháng 9 và đã vượt lại lên trên ngưỡng 50 điểm sau khi chịu tình trạng gián đoạn do cơn bão số 3 gây ra trong tháng trước cho thấy sản xuất công nghiệp đã phục hồi nhanh sau bão số 3. Trong tháng 10, có 22,8 nghìn doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, tăng 29% so với tháng trước; tính chung 10 tháng có 202,3 nghìn doanh nghiệp, cao hơn số rút lui khỏi thị trường (173,2 nghìn doanh nghiệp). Các động lực tăng trưởng từ phía cầu phục hồi tích cực. Tổng vốn FDI đăng ký 10 tháng khoảng 27,3 tỷ USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng tăng 8,5% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu 10 tháng tăng lần lượt 15,8%, 14,9% và 16,8% so với cùng kỳ; xuất siêu ước đạt 23,3 tỷ USD.   Dù vậy, với tác động của các bất ổn địa chính trị toàn cầu, trong khi sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu, nền kinh tế đang đối mặt nhiều thách thức. Trong đó, rõ rệt nhất là ngành nông nghiệp, du lịch bị ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, các cơn bão lớn liên tiếp, đặc biệt là cơn bão số 3. Ảnh hưởng, thiệt hại bởi cơn bão số 3 cần thời gian để khắc phục. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính sơ bộ là 81,8 nghìn tỷ đồng (tương đương 0,8% GDP năm 2023 theo giá hiện hành), gấp 6,7 lần thiệt hại thiên tai của năm 2023 và cao hơn tổng thiệt hại do thiên tai của cả ba năm 2021-2023.     Về thị trường, sức mua trong nước chậm phục hồi; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng (nếu loại trừ yếu tố giá) tăng 4,6% so với cùng kỳ, thấp nhất từ đầu năm đến nay. Mức tăng này cũng thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm 2023 và giai đoạn 2015-2019.   Mặt khác, những bất ổn từ biến động địa chính trị thế giới đang tạo rủi ro đáng chú ý với đà phục hồi và tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong những tháng cuối năm nay và cả năm sau. Đó là, tình trạng xung đột quân sự tiếp tục leo thang giữa Israel - Iran, các yếu tố bất ổn mới xuất hiện tại bán đảo Triều Tiên và một số quốc gia, khu vực. Kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, không đồng đều và thiếu vững chắc; kinh tế Mỹ duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định trong Quý III, trong khi Trung Quốc, EU, Hàn Quốc tăng trưởng thấp, tiếp tục đối mặt với nhiều rủi ro.   Đẩy mạnh các động lực tăng trưởng   Về triển vọng và giải pháp thực hiện để đạt mục tiêu tăng trưởng năm nay và năm sau, TS. Cấn Văn Lực, thành viên hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, cần thực hiện đồng bộ và hiệu quả nhiều nhóm chính sách. Trong đó, quan trọng nhất là quyết liệt đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi hơn cho đầu tư - kinh doanh; tháo gỡ kịp thời các vướng mắc trong quá trình triển khai các luật đã có hiệu lực, nhất là các Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Giao dịch điện tử...   Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách tiền tệ - tài khóa, chính sách giá cả nhằm thúc đẩy tăng trưởng, ổn định vĩ mô, bình ổn tỷ giá, lãi suất, thị trường tài chính - tiền tệ, đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó, chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, gắn với đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, tăng khả năng tiếp cận tín dụng gắn với kiểm soát rủi ro và xử lý nợ xấu; quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống liên thông giữa ngân hàng - chứng khoán - bất động sản.   Đáng chú ý, cần phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống từ xuất khẩu, đầu tư tư nhân và tiêu dùng, triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ tài khóa như giãn, hoãn, giảm thuế, phí, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, cũng như các chính sách về tín dụng - tiền tệ để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, các ngành, lĩnh vực bị thiệt hại bởi cơn bão số 3 vừa qua.   Trong khi đó, theo TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương, một động lực tăng trưởng quan trọng trong thời gian tới là cầu đầu tư, trong đó đầu tư nhà nước là một phần và đầu tư tư nhân có thể tăng lên cùng với sự phục hồi và kỳ vọng vào đà tăng trưởng của nền kinh tế. “Tôi hy vọng, một trong những đột phá trong năm 2025 là sẽ có những quyết sách mới với đầu tư công để đẩy tiền ra nhanh hơn”, ông Tú Anh nhấn mạnh.   Từ góc độ khác, ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cũng cho rằng các động lực tăng trưởng ở phía cầu bao gồm tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ và xuất nhập khẩu. Theo đó, năm 2024, xuất nhập khẩu tăng mạnh dù có phần nhờ tăng trưởng trên nền thấp của năm trước. Năm 2025, thị trường thế giới hạ nhiệt, triển vọng xuất khẩu năm 2025 sẽ không duy trì được như năm nay. Do đó, năm 2025, cần thúc đẩy mạnh các động lực tăng trưởng như tiêu dùng, chi tiêu của Chính phủ. “Động lực tăng trưởng nằm trong tay Chính phủ, bao gồm cả chi tiêu ngân sách và đầu tư công. Đòn bẩy là chi tiêu công, kích cầu nội địa kéo đầu tư nội địa và tiêu dùng tăng lên", ông Bá Hùng đánh giá.   BOX: Tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ, bứt phá trong giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng chiến lược, nhất là những dự án có tính chất xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái; tập trung nguồn lực cho các dự án liên vùng, liên tỉnh, liên quốc gia, quốc tế.   Trong đó, các bộ, cơ quan, địa phương có tỷ lệ giải ngân dưới mức trung bình của cả nước tập trung chỉ đạo, đôn đốc, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của người đứng đầu trong giải ngân vốn đầu tư công. Các bộ, cơ quan, địa phương được Thủ tướng Chính phủ giao bổ sung kế hoạch năm 2024, khẩn trương thực hiện phân bổ chi tiết cho các nhiệm vụ, dự án, phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch vốn mới được bổ sung.   Tăng cường hoạt động của các Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các bộ, cơ quan, địa phương có mức phân bổ vốn lớn nhưng tốc độ giải ngân chậm. Kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc, giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài để đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án hạ tầng quan trọng, trọng điểm quốc gia, không để xảy ra thất thoát, lãng phí.   Tiếp tục đẩy mạnh triển khai giải ngân vốn thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; khẩn trương sửa đổi, bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản về quản lý, tổ chức thực hiện các Chương trình theo ngành, lĩnh vực và địa bàn được phân công; chủ động rà soát, phát hiện khó khăn, vướng mắc, có giải pháp tháo gỡ hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý kịp thời.   (Trích Nghị quyết số 218/NQ-CP ngày 12/11/2024 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 /2024)

CHẶNG ĐƯỜNG MỚI CỦA TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG

Sau 9 năm Ngân hàng Nhà nước mua lại bắt buộc 4 ngân hàng thương mại, đến nay, mới có 2 ngân hàng 0 đồng là Ngân hàng Xây dựng (CBBank) và Ngân hàng Đại dương (OceanBank) chính thức được chuyển giao bắt buộc lần lượt cho Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Quân đội (MBBank). Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank) đã hoàn tất khâu định giá, Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á đang triển khai tích cực các công việc theo đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt. Quá trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém rất gian nan song cũng đã đi đến một bước ngoặt mới, kỳ vọng sẽ tạo được bước đột phá trong thời gian tới.      Giúp các ngân hàng yếu kém khắc phục khó khăn   Ông Nguyễn Đức Long, Phó Chánh thanh tra Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước cho biết mục tiêu của chuyển giao bắt buộc là nhằm giúp các ngân hàng yếu kém khắc phục khó khăn, đảm bảo an toàn, tuân thủ các quy định pháp luật,  trước - trong và sau quá trình chuyển giao, tiền gửi của người gửi tiền hoàn toàn được đảm bảo.   Theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, kể từ lúc được chuyển giao, toàn bộ quyền và lợi ích của chủ sở hữu, thành viên góp vốn hay cổ đông của ngân hàng được chuyển giao bắt buộc sẽ chấm dứt. Bên nhận chuyển giao sẽ tiếp nhận và chịu trách nhiệm với toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng được chuyển giao bao gồm các khoản vay, tiền gửi của khách hàng…   Về quyền lợi của ngân hàng nhận chuyển giao, theo ông Long, ngân hàng nhận chuyển giao sẽ được hưởng một số cơ chế hỗ trợ như tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tốt hơn. Tuy nhiên, các cơ chế hỗ trợ này vẫn theo quy định pháp lý hiện hành, đặc biệt là Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.   Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành quy định rất nhiều quyền lợi mà bên nhận chuyển giao bắt buộc có thể được hưởng, bao gồm: Sở hữu 100% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc đối với trường hợp ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Không thực hiện hợp nhất báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc; Được loại trừ ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc khi tính tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất; Khoản vốn góp vào ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc không phải thực hiện trích lập dự phòng giảm giá các khoản đầu tư và được loại trừ khi tính giới hạn góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao.     Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng trong nước khi nhận chuyển giao bắt buộc còn có thể được tạo điều kiện thông qua dự thảo quy định về việc tăng tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước dự kiến đã có tờ trình gửi Chính phủ về việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 03/01/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam. Trong đó, nổi bật là đề xuất nâng tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc vượt 30% nhưng không vượt quá 49% vốn điều lệ của ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc.   Nên đẩy nhanh tiến độ   Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2024 vừa qua, ông Đỗ Việt Hùng - Thành viên Hội đồng quản trị Ngân hàng Vietcombank cho biết, nếu nhận chuyển giao ngân hàng yếu kém, Vietcombank sẽ được cấp hạn mức tăng trưởng tín dụng cao hơn, có quyền định đoạt, xử lý tổ chức chuyển giao bắt buộc, nếu tìm được tổ chức nước ngoài phù hợp, có thể bán tổ chức nhận chuyển giao, duy trì hoặc có phương án khác như chuyển đổi, cải cách (chẳng hạn như chuyển sang ngân hàng số). Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2024, lãnh đạo Ngân hàng MBBank (MB) cho biết, việc nhận chuyển giao bắt buộc một tổ chức tín dụng giúp MBBank có cơ hội để tăng trưởng quy mô cao hơn mức tăng trưởng bình quân thị trường khoảng 1,5 đến 2 lần trong dài hạn, cải thiện thứ hạng cạnh tranh và có nhiều không gian tăng trưởng mới. Đồng thời, việc tối ưu mạng lưới kênh phân phối của MB và tổ chức tín dụng được chuyển giao bắt buộc cùng với các điều kiện ưu tiên được phát triển mạng lưới trong tương lai sẽ giúp MB tiết kiệm thời gian và chi phí đầu tư, tăng độ bao phủ phục vụ khách hàng theo chiến lược bán lẻ và chuyển đổi số của MB. Trong thời gian thực hiện phương án chuyển giao bắt buộc, MB được xử lý phần vốn góp, xử lý cổ phần dưới các hình thức phù hợp hoặc sáp nhập theo phương án chuyển giao bắt buộc được phê duyệt, qua đó MB có cơ hội tạo giá trị thặng dư vốn và/ hoặc tăng quy mô cho MB. TS. Châu Đình Linh, giảng viên Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, thông thường, một ngân hàng đang phát triển tốt không muốn nhận chuyển giao một ngân hàng yếu kém bởi lợi ích nhận được chưa rõ ràng, trong khi sự phức tạp và rủi ro của công tác quản trị thì được nhận diện rõ. Do đó, từ lúc mua lại các ngân hàng 0 đồng, phải mất 9 năm mới hoàn tất định giá, riêng quá trình định giá mất đến 2 năm. “Việc chuyển giao các ngân hàng yếu kém là cột mốc mới của tiến trình phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Số lượng ngân hàng được thu gọn hơn, nhưng chất lượng được cải thiện. Nỗ lực này cũng khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc xử lý các ngân hàng yếu kém, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại, bền vững”, ông Linh nói. Ông Linh kiến nghị nên đẩy nhanh tiến độ định giá và tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, đồng thời, để ngăn phát sinh thêm các trường hợp rủi ro, cần kích hoạt chức năng giám sát tự động bằng công nghệ mới với công nghệ quản trị rủi ro hiện đại, kịp thời và hiệu quả, ngăn chặn các vụ việc đáng tiếc trước khi quá muộn. Bích Thủy