Bản chất cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là cuộc cách mạng số, chuyển đổi số để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực (thế giới vật lý) thành thế giới số (thế giới ảo), hay nói cách khác, mọi thực thể của thế giới thực đều có phiên bản thế giới số và dùng thế giới số này để điều hành trở lại thế giới thực từ đó làm cho công tác quản trị kinh tế - xã hội từ sản xuất đến tiêu dùng hiệu quả hơn, tốt hơn và thông minh hơn.
Ý tưởng bao trùm của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là kết nối, hợp tác và chia sẻ. Vì vậy, phải tăng cường hợp tác giữa các cơ quan Chính phủ với nhau; giữa Chính phủ với doanh nghiệp, người dân; giữa người dân với nhau; giữa các đơn vị trong cùng một ngành, một địa phương, giữa trong nước với ngoài nước. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc cách mạng này. Chúng ta không chỉ giải quyết những “bài toán” của nội bộ đơn vị, quốc gia mình mà còn có trách nhiệm trước những vấn đề chung của thế giới. Chuyển đổi số là cuộc chuyển đổi toàn diện từ không gian thực lên không gian số, cho phép đưa toàn bộ hoạt động lên không gian số. Cuộc dịch chuyển này diễn ra với tốc độ nhanh chóng theo ba trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số = xã hội thông minh.
1. Kinh tế số và Chính phủ số
1.1. Kinh tế số
Nền kinh tế số (digital economy) là nền kinh tế mà các mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của nó dựa trên ứng dụng công nghệ số, được ứng dụng từ trong quá trình sản xuất, phân phối đến tiêu dùng. Công nghệ số bao gồm các công cụ chính của Cách mạng công nghiệp 4.0 như: Cloud Computing (điện toán đám mây), Big data (dữ liệu lớn), IoT (Internet kết nối vạn vật), AI (trí tuệ nhân tạo), Robot, Blockchain (công nghệ chuỗi khối)...
Kinh tế số với những đặc trưng như: i) Được tập hợp trong 3 quá trình xử lý chính đan xen với nhau, bao gồm: xử lý vật liệu, xử lý năng lượng và xử lý thông tin. Trong đó, xử lý thông tin đóng vai trò quan trọng nhất và cũng là lĩnh vực dễ số hóa nhất; ii) Tính kết nối/siêu kết nối giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào các thành tựu của công nghệ thông tin và IoT giúp kết nối hóa các nguồn lực, lược bỏ nhiều khâu trung gian và tăng cơ hội tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu.
Kinh tế số không chỉ tạo ra quy mô và tốc độ tăng trưởng cho các nền kinh tế, mà còn làm các nền kinh tế thay đổi trên 2 bình diện: (i) Phương thức sản xuất (nguồn lực, hạ tầng, cách thức vận hành sản xuất kinh doanh); (ii) Cơ cấu kinh tế. Trong đó, đáng chú ý là bên cạnh các nguồn lực truyền thống xuất hiện nguồn lực phát triển mới là tài nguyên số, của cải số. Thực tế cho thấy, kinh tế số giúp tăng trưởng bền vững hơn, xanh hơn bởi công nghệ số sẽ mang lại những giải pháp tốt, hiệu quả hơn đối với việc sử dụng tài nguyên, xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường… Phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới, tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp, với sự hội tụ của các công nghệ mới trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp sẽ đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại đến sử dụng... và góp phần tăng năng suất lao động.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra và chấp nhận các mô hình kinh doanh mới, các công nghệ mới để thay đổi nền kinh tế như Fintech (công nghệ tài chính), EdTech (công nghệ giáo dục), healthtech (công nghệ y tế), Ad Tech (công nghệ quảng cáo), AgriTech (công nghệ nông nghiệp), Cultech (công nghệ văn hóa)… X.Tech. Các X.Tech này, thường là sự sáng tạo mang tính phá hủy cái cũ để tạo ra cái mới tốt hơn, rẻ hơn thông minh hơn. Công nghệ số cho phép mọi giao dịch thông qua IoT, Fintech và dữ liệu lớn do đó công tác quản lý, điều hành, kiểm tra, kiểm toán, giám sát nền kinh tế phải thay đổi và thích ứng với công nghệ số.
Các thành phần kinh tế số bao gồm các thành phần ẩn và thành phần hiện:
- Các thành phần kinh tế số ẩn bao gồm cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin kèm theo như phần cứng, phần mềm, hệ thống mạng…
- Các thành phần kinh tế số hiện bao gồm kinh doanh trực tuyến (e-business) và thương mại điện tử (e-commerce).
Bức tranh đan xen giữa kinh tế số và kinh tế truyền thống càng ngày trở nên rõ nét hơn. Kinh tế số không đơn thuần là chuyển dịch từ kinh doanh trực tiếp mặt đối mặt (face to face) sang trực tuyến (online). Kinh tế số là chuyển hóa mọi mặt đời sống kinh tế từ tương tác đến các giao dịch và nó thúc đẩy sự sáng tạo trong nền kinh tế từ sản xuất đến tiêu dùng, đặc biệt tác động đến hệ thống ngân hàng ở những điểm sau đây:
- Mô hình ngân hàng số hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ thông tin thông qua các thiết bị số kết nối với các phần mềm máy tính qua mạng Internet trên thực tế đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn bộ cấu trúc hệ thống ngân hàng và cung cấp nhiều dịch vụ hiện đại của hệ thống ngân hàng.
- Những sản phẩm dịch vụ tài chính mới như M-POS, internet banking, mobile banking, công nghệ thẻ chip, ví điện tử… ngày càng phát triển mạnh, tạo thuận lợi cho người dân trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiết kiệm chi phí giao dịch phi văn phòng tiến tới chi phí giao dịch bằng 0.
- Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi hoàn toàn kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống và trải nghiệm khách hàng đang dần trở thành xu hướng vượt trội.
- Smartphone đã thay đổi cách con người giao tiếp và tương tác, kéo theo sự thay đổi trong kênh phân phối, mạng lưới bán hàng và cách thiết kế sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng. Kênh bán hàng qua Internet, mobile banking, tablet banking, mạng xã hội, phát triển ngân hàng kỹ thuật số, giao dịch không giấy tờ là xu thế phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, việc sử dụng các công nghệ như giao tiếp qua web (web-chat) và Skype ngày càng nhiều hơn.
- Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ tạo ra những bước tiến mới trong thay đổi cách giao tiếp và xử lý nghiệp vụ thông qua tương tác và giao tiếp điện tử.
- Robot sẽ đảm nhiệm việc quản lý danh mục rủi ro, quản lý khách hàng, quản lý cơ sở dữ liệu, danh mục đầu tư... Do đó, nếu kinh tế Việt Nam làm chủ được các công nghệ này, thì không những tăng chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm toán mà còn tăng năng suất lao động lên nhiều lần.
1.2. Chính phủ số
Để quản lý kinh tế số phải xây dựng Chính phủ số tương thích với nó. Chính phủ số là Chính phủ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình được vận hành hoàn toàn dựa trên dữ liệu và công nghệ số, nhằm cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, đồng thời giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong sự phát triển, quản lý kinh tế - xã hội. Chính phủ số là Chính phủ quản lý kinh tế - xã hội hoàn toàn dựa trên dữ liệu số và công nghệ số, nhằm cung cấp dịch vụ công nhanh hơn, chất lượng hơn và hiệu quả hơn.
Đặc điểm của Chính phủ số
Thước đo chính của Chính phủ số là số lượng dịch vụ hành chính công giảm, số lượng dịch vụ công mới, sáng tạo phục vụ xã hội tăng lên nhờ công nghệ và dữ liệu số. Chính phủ điện tử là tin học hóa các quy trình hiện có, còn Chính phủ số là cung cấp các dịch vụ mới theo nhu cầu người dân và doanh nghiệp.
Khác biệt cốt lõi của Chính phủ số, đó là sử dụng dữ liệu để ra quyết định và coi dữ liệu như là một loại tài nguyên mới, đó là chuyển đổi về cách thức ra quyết định của cơ quan chính quyền dựa trên các báo cáo bản giấy sang dựa trên dữ liệu phân tích, định lượng và tổng hợp từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau nhờ AI. Đó là sự kết nối và chia sẻ dữ liệu của các cơ quan nhà nước để người dân chỉ cần cung cấp thông tin một lần cho cơ quan nhà nước. Các doanh nghiệp cộng đồng có thể sử dụng dữ liệu này để cung cấp thêm các dịch vụ mới.
Hiểu một cách đơn giản, Chính phủ điện tử thì chủ yếu là sử dụng công nghệ thông tin. Còn Chính phủ số thì sử dụng công nghệ số, đặc biệt là công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Thực chất, Chính phủ số là Chính phủ điện tử nhưng có thêm “4 Có”, bao gồm: Có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, Có khả năng cung cấp dịch vụ mới nhanh chóng, Có khả năng sử dụng nguồn lực tối ưu và Có khả năng kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội.
2. Những cơ hội, thuận lợi và thách thức đối với Kiểm toán nhà nước trong kinh tế số và Chính phủ số
2.1. Những cơ hội và thuận lợi
Tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20% GDP, phát triển được một cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh. Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP. Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số tiến tới xã hội thông minh là xu thế tất yếu của thế giới nói chung trong đó có Việt Nam.
Do đó, đòi hỏi Kiểm toán nhà nước cũng phải thay đổi phương thức kiểm toán truyền thống dựa trên văn bản giấy tờ sang kiểm toán trong môi trường số, kiểm toán trực tuyến. Đây vừa là cơ hội và cũng chính là thách thức đối với Kiểm toán nhà nước, đòi hỏi Kiểm toán nhà nước phải nỗ lực xây dựng lộ trình chuyển đổi số phù hợp để thích ứng kịp thời với xu hướng này, nếu không nói là phải tiên phong đi trước.
Cùng với Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ thay đổi cơ bản phương thức thực hiện các công việc kế toán - kiểm toán hiện nay bằng việc áp dụng chứng từ điện tử, các phần mềm tổng hợp, xử lý dữ liệu, ghi sổ kế toán cũng như cho phép thực hiện các phương thức kiểm toán trong môi trường tin học hóa. Những người làm công tác tài chính - kế toán sẽ không còn mất quá nhiều công sức trong việc phân loại chứng từ, xử lý từng nghiệp vụ kinh tế riêng lẻ, ghi các loại sổ kế toán mà vấn đề quan trọng hơn là cần phải quan tâm đến việc trình bày báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS.
Cách mạng công nghiệp 4.0 đưa đến những thay đổi to lớn đến công tác kế toán do đó lĩnh vực kiểm toán cũng phải thay đổi tương ứng. Hiện nay, nhiều phần mềm 4.0 đã được áp dụng rộng rãi và hiệu quả trong quá trình kiểm toán tại các công ty kiểm toán Big4 và một số công ty kiểm toán là thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế trong lập hồ sơ và thực hiện các thủ tục kiểm toán.
Học máy là sự giao thoa giữa thống kê cổ điển với khoa học máy tính. Một mục tiêu quan trọng của ngành học máy là làm sao để máy tính thông minh hơn, có khả năng học hỏi và hình thành tri thức một cách tự động từ kinh nghiệm và trở nên hữu ích hơn trong giao tiếp với con người. Học máy có một vai trò quan trọng với mọi Chính phủ trên toàn cầu, trong việc phân tích và dự báo dữ liệu thông tin quốc gia, từ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh tới y tế, văn hóa - giáo dục, môi trường… Kiểm toán nhà nước có cơ hội sử dụng nguồn dữ liệu mở vô tận này trong hoạt động kiểm toán thông qua học máy.
Dữ liệu luôn được thu thập liên tục bằng rất nhiều phương tiện trong từng giây. Những bộ dữ liệu quý giá này sẽ được xử lý bởi hệ thống học máy và trí tuệ nhân tạo. Thông tin sau khi xử lý, phân tích chính xác và đưa ra những chỉ báo hiệu quả những kết luận chính xác đáng tin cậy sẽ mang lại rất nhiều giá trị và lợi thế cho Kiểm toán nhà nước nói riêng và quốc gia đó nói chung. Bởi vậy, Kiểm toán nhà nước phải kết nối được với các đối tượng kiểm toán. Nhiều cơ quan quản lý nhà nước đã kết nối tới các đối tượng quản lý, đã có công cụ giám sát thì kiểm toán chỉ cần kết nối tới các đơn vị quản lý nhà nước này là được. Chuyển đổi số thì sẽ làm được việc kiểm toán online, toàn diện. Kiểm toán trên môi trường số thì phải dùng công nghệ số. Kiểm toán nhà nước vì thế mà phải dùng công nghệ 4.0 nhiều hơn.
Các dữ liệu tài chính xử lý qua học máy sẽ giúp kiểm toán viên dự báo các dữ liệu tương lai và từ đó, nắm được quy luật vận động của dòng tiền, xử lý số liệu báo cáo tài chính sẽ phát hiện được những điều bất thường không đảm bảo tính logic để hướng kiểm toán viên chú ý vào những điểm rủi ro có tính trọng yếu.
Blockchain
Blockchain là một cơ sở dữ liệu phân cấp lưu trữ thông tin trong các khối (block) thông tin được liên kết chuỗi (chain) với nhau bằng mã hóa và mở rộng theo thời gian. Mỗi khối thông tin đều chứa thông tin về thời gian khởi tạo và được liên kết tới khối trước đó, kèm một mã thời gian và dữ liệu giao dịch. Blockchain được thiết kế để chống lại việc thay đổi của dữ liệu: Một khi dữ liệu đã được mạng lưới chấp nhận thì sẽ không có cách nào thay đổi được nó.
Blockchain được đảm bảo nhờ cách thiết kế sử dụng hệ thống tính toán phân cấp với khả năng chịu lỗi byzantine cao (lỗi byzantine xảy ra khi một hoặc nhiều thành phần của hệ thống không hoạt động chính xác hoặc có ý đồ gian lận bằng cách gửi thông tin sai lệch cho các thành phần khác trong mạng lưới). Vì vậy, sự đồng thuận phân cấp có thể đạt được nhờ blockchain. Do đó, blockchain phù hợp để ghi lại những sự kiện, hồ sơ y tế, xử lý giao dịch, công chứng, danh tính và chứng minh nguồn gốc. Việc này có tiềm năng giúp xóa bỏ các hậu quả lớn khi dữ liệu bị thay đổi trong bối cảnh thương mại toàn cầu nói chung và hoạt động kiểm toán nói riêng, bởi bằng chứng kiểm toán là vô cùng quan trọng.
Blockchain được xem như “sổ cái kỹ thuật” lưu trữ toàn bộ thông tin, giao dịch và đều được mã hóa. Và điều rất hay bởi nó là cuốn sổ cái mở và vô hạn. Đó là bất cứ người nào nằm trong mạng ngang hàng đều có thể xem thông tin tuy nhiên không ai có thể thay đổi thông tin đã được mã hóa đã được đưa vào các khối. Sử dụng blockchain là để lưu trữ và xác nhận việc trao đổi đồng tiền thuật toán hay còn gọi là tiền ảo. Kiểm toán viên khi làm chủ được công nghệ blockchain sẽ sở hữu một kho dữ liệu khổng lồ tin cậy và chính xác để làm bằng chứng kiểm toán vô cùng thuyết phục.
Nhờ có hệ thống mạng không dây, công nghệ số hóa cùng các ứng dụng, thiết bị tiên tiến giúp thu thập, xử lý thông tin là công cụ đắc lực cho Kiểm toán viên nhà nước có cơ hội học hỏi, tiếp cận và thực hiện công việc mà không bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý. Kiểm toán viên nhà nước sẽ không tốn quá nhiều thời gian và công sức cho việc xử lý, phân loại các chứng từ để chú trọng vào việc trình bày và phân tích báo cáo tài chính theo chuẩn mực và kiểm toán viên đọc và phân tích báo cáo tài chính. Vì vậy, các Kiểm toán viên nhà nước không những cần có kiến thức về tài chính kế toán mà cần phải am hiểu và sử dụng thành thạo các công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0.
2.2. Thách thức
Có thể khái quát hiện nay Kiểm toán nhà nước và Kiểm toán viên nhà nước có 3 thách thức lớn bao gồm (i) thách thức về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc điểm nghề nghiệp; (ii) thách thức về đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử và bản lĩnh nghề nghiệp; (iii) và thách thức trước cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình chuyển đổi số trong đó có kinh tế số và Chính phủ số.
Hệ thống pháp luật đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, do đó có những mâu thuẫn, chồng chéo, có những điều luật không phải lúc nào cũng tường minh gây khó khăn cho Kiểm toán viên nhà nước khi áp dụng. Thiếu hiểu biết pháp luật toàn diện, hiểu không đầy đủ, không cặn kẽ cũng có thể khiến chính mình trở thành người phạm tội. Cho nên, ai hợp, ai có duyên, ai thấy cái hay của nghề kiểm toán, như làm nghề bác sỹ khám bệnh cứu người phòng tránh bệnh tật, để cho cơ thể phát triển lành mạnh, thì mới có thể ở lại với ngành này. Nghề này yêu cầu “Công minh, chính trực, nghệ tinh, tâm sáng”. Những người làm nghề kiểm toán phải rất am hiểu pháp luật và giỏi nghề kiểm toán, lĩnh vực mình kiểm toán. Bởi theo lẽ thường, muốn phán xét người khác trước hết mình phải đủ tư cách và giỏi về chuyên môn. Chỉ có như vậy, những kiến nghị kiểm toán mới có lý, có tình, mới làm cho khách thể được kiểm toán tâm phục, khẩu phục, và cũng vì thế mà họ mới thành tâm sửa lỗi, mới biết ơn Kiểm toán nhà nước đã chỉ ra cho họ thấy sai mà sửa. Phải phấn đấu làm sao để khách thể kiểm toán khi chưa tiếp xúc với Kiểm toán nhà nước nói chung và Kiểm toán viên nhà nước nói riêng người ta còn có tâm lý “ngại”, khi tiếp xúc rồi người ta cảm thấy “khoái” và đến lúc chia tay người ta mong ngày được gặp lại.
Kiểm toán nhà nước phải góp phần hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn đang tiếp tục hoàn thiện, nhiều cái chưa theo kịp cuộc sống. Mỗi cuộc kiểm toán, phải luôn xem hệ thống pháp luật khi áp dụng vào cuộc sống có tồn tại gì, có bất cập gì không hay còn kẽ hở nào không. Và trong kiến nghị kiểm toán, ngoài việc kiến nghị xử lý tài chính, quan trọng hơn là những kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện thậm chí bãi bỏ những cơ chế, quy định, những quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, trái luật, chồng chéo, mâu thuẫn, hay kẽ hở cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội làm thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước. Đó là đóng góp lớn nhất, quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất của Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán viên nhà nước qua đó giúp chúng ta giữ được “của” và cũng giữ được “người”, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn và nhân văn hơn.
Kiểm toán nhà nước cần phải tập trung vào các vấn đề nóng, tham nhũng, lãng phí, thất thoát, tiêu cực của nền kinh tế gây bức xúc cho xã hội. Nghĩa là kiểm toán phải làm những việc khó, không phải chỉ làm cái dễ sẽ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân đánh giá cao và ghi nhận. Do đó, Kiểm toán nhà nước phải tăng cường thực hiện nhiều cuộc kiểm toán hoạt động hơn, trên cơ sở ứng dụng những thành quả của Cách mạng công nghiệp 4.0. Do đó, một thách thức lớn đối với Kiểm toán nhà nước nói chung và Kiểm toán viên nhà nước nói riêng là phải làm chủ được các công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 mới hoàn thành tốt nhiệm vụ trong bối cảnh kinh tế số và Chính phủ số.
Công việc việc kiểm toán ngày càng nhiều, biên chế không được tăng, thậm chí yêu cầu ngày càng tinh gọn. Vậy Kiểm toán nhà nước phải làm thế nào? Phải sử dụng công nghệ nhiều hơn, phải tự động hóa một số khâu tiến tới tự động hóa hoàn toàn bằng công nghệ số, phải biết cách tìm ra nhanh nhất cái cốt lõi, cái bản chất của các sự việc và hiện tượng. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ cung cấp cho Kiểm toán nhà nước nhiều công cụ hữu ích đặc biệt là trợ lý ảo (AI chatbot) để hỗ trợ trong công tác chuyên môn; xây dựng cơ sở dữ liệu về các cuộc kiểm toán chuẩn, để làm tiền lệ như “án lệ” bên tòa án. Con người chúng ta không có cách nào đua được với người máy về năng suất lao động, thời gian làm việc và độ chính xác. Các tri thức của kiểm toán phải được chắt lọc qua các cuộc kiểm toán hằng quý, hằng năm và đưa vào hệ thống tri thức của Kiểm toán nhà nước, mà biểu hiện của nó là các mẫu thông tin, dữ liệu dưới dạng số hóa. Kiểm toán mỗi năm phải hệ thống hóa lại những phát hiện mới, tri thức mới, lập trình tri thức này vào nền tảng làm việc số, tự động hóa, dùng công nghệ hỗ trợ, để tiến hành kiểm toán bằng các phần mềm, có như vậy mới làm tăng năng suất lao động. Việc chuyển đổi sang Chính phủ số là chuyển các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước lên môi trường số. Nếu như trước đây, việc kiểm tra, kiểm toán được thực hiện trực tiếp tại các đơn vị, doanh nghiệp theo cách truyền thống, thì bây giờ, với Chính phủ số, các cơ quan chức năng sẽ thanh tra, kiểm tra, kiểm toán trực tuyến thông qua hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đã kết nối mà không cần đến cơ quan, đơn vị được kiểm toán. Mục tiêu đến năm 2025 là có 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước được thực hiện từ xa trên môi trường số. Và công tác kiểm toán cũng không phải là ngoại lệ, đây quả thực là một thách thức lớn đối với Kiểm toán nhà nước.
Với sự tiến bộ vượt bậc của Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra những thách thức đối với Kiểm toán nhà nước đó là: Nền kinh tế số; Chính phủ số; big data; đồng tiền ảo; robot với trí tuệ nhân tạo có thể thay thế công việc của kiểm toán viên; tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến khách thể kiểm toán... Muốn kiểm toán trong môi trường công nghệ số, các thách thức lớn mà Kiểm toán nhà nước phải đối mặt là: hoàn thành số hóa dữ liệu; xây dựng và làm chủ hạ tầng số; đảm bảo an ninh an toàn mạng và bảo mật thông tin dữ liệu kiểm toán và có Kiểm toán viên nhà nước 4.0…
3. Các giải pháp để Kiểm toán nhà nước thích ứng với kinh tế số và Chính phủ số
Thứ nhất, xây dựng và làm chủ hạ tầng số. Xây dựng hạ tầng kỹ thuật số, để kết nối và chia sẻ dữ liệu đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số của Kiểm toán nhà nước. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, hạ tầng viễn thông sẽ chuyển dịch thành hạ tầng kỹ thuật số bao gồm hạ tầng viễn thông và điện toán đám mây, để ứng dụng hiệu quả các công nghệ số vào hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Điều này đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn, sự đồng bộ về quy hoạch, đầu tư để đảm bảo tính đồng bộ và tương thích do sự đa dạng và phức tạp giữa các hệ thống hiện có và quy trình hành chính của Kiểm toán nhà nước, cần có quy trình và chuẩn mực chung, đầu tư xây dựng và làm chủ hạ tầng kỹ thuật số để có thể kết nối, chia sẻ dữ liệu nguồn mở khổng lồ của Kiểm toán nhà nước, của quốc gia và thế giới. Cần khẩn trương để có thể từng bước nâng cấp, chuyển đổi sang nền tảng điện toán đám mây (với các mô hình triển khai đám mây công cộng, đám mây dùng riêng, đám mây lai) và IoT để nhanh chóng áp dụng các thành tựu của các công cụ công nghệ số vào hoạt động của Kiểm toán nhà nước.
Thứ hai, khẩn trương số hóa tài liệu liên quan đến hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
Hiện nay, Kiểm toán nhà nước đã số hóa hồ sơ 1.300 cuộc kiểm toán với hơn 13 triệu trang tài liệu các loại, so với số lượng tài liệu hiện có phải nói là còn khiêm tốn [1]. Do đó, cần tập trung nguồn lực để đẩy nhanh việc định danh, xác thực điện tử và xây dựng cơ sở dữ liệu mở dùng chung như các tài liệu về chuyên môn kiểm toán, bao gồm quy trình, chuẩn mực, phương pháp kiểm toán chung và các lĩnh vực chuyên sâu (doanh nghiệp, đơn vị hành chính, sự nghiệp, các tổ chức tín dụng ngân hàng, đầu tư dự án, môi trường…) các loại hình kiểm toán; các hồ sơ báo cáo kiểm toán; kết nối với nhiều nguồn dữ liệu mở khác nhau phục vụ cho hoạt động kiểm toán để chia sẻ giữa Kiểm toán nhà nước với các đơn vị được kiểm toán và các chủ thể kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Xây dựng dữ liệu nguồn mở dùng chung phục vụ tích hợp cũng như chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị, kiểm toán viên trong Kiểm toán nhà nước và với các đơn vị được kiểm toán và các cơ quan nhà nước có liên quan. Cơ sở dữ liệu nguồn mở này bao gồm hệ thống luật pháp, các quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm toán; quy trình, chuẩn mực, phương pháp kiểm toán; hướng dẫn kiểm toán; đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử của Kiểm toán viên nhà nước; báo cáo kiểm toán của tất cả các cuộc kiểm toán của Kiểm toán nhà nước từ khi thành lập cho đến nay; kế hoạch kiểm toán; theo dõi thực hiện kiến nghị kiểm toán. Điểm quan trọng, giải pháp đột phá là sử dụng nền tảng và định hướng dữ liệu mở. Cụ thể, nền tảng số được xác định là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả. Nền tảng được tạo ra bởi những doanh nghiệp công nghệ số xuất sắc, cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng ngay dưới dạng dịch vụ thay vì phải tự đầu tư, tự vận hành.
Thứ ba, xây dựng các phần mềm hỗ trợ kiểm toán
Hiện nay, Kiểm toán nhà nước đã xây dựng được trên 30 phần mềm quản lý và hỗ trợ hoạt động kiểm toán; còn rất khiêm tốn, chưa đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi số. Do đó, Kiểm toán nhà nước phải tích cực xây dựng các phần mềm kiểm toán chuẩn cho các lĩnh vực và loại hình kiểm toán. Trước mắt, xây dựng được các phần mềm quản lý khách thể kiểm toán, phần mềm để lọc và chọn được các đơn vị, các vấn đề kiểm toán làm cơ sở để xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm. Với sự trợ giúp của AI chatbot, dữ liệu lớn, AI, IoT, Kiểm toán nhà nước có thể tiến tới xây dựng các phần mềm kiểm toán để có thể kiểm toán 100% mà không phải chọn mẫu kiểm toán và kiểm toán hằng năm các khách thể kiểm toán nhất là các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. Với trí tuệ nhân tạo giúp robot có được những trí tuệ của con người như: biết suy nghĩ và lập luận để giải quyết vấn đề, biết giao tiếp do hiểu ngôn ngữ, tiếng nói, biết học và tự thích nghi... Ưu điểm có thể làm việc 24/7/365, không cần trả lương, đóng thuế, bảo hiểm... robot càng làm việc càng thông minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô tận...
Thứ tư, bảo đảm an toàn, an ninh mạng và bảo mật thông tin.
Nếu coi chuyển đổi số là một vũ khí sắc bén để mở rộng không gian mạng quốc gia, thì an toàn, an ninh mạng sẽ là chiếc khiên vững chắc bảo vệ thành quả của chuyển đổi số của quốc gia nói chung và của Kiểm toán nhà nước nói riêng. An toàn, an ninh mạng và bảo mật thông tin phải song hành và trở thành một phần không thể tách rời của chuyển đổi số trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước.
Thứ năm, đào tạo nguồn nhân lực đặc biệt là đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước
Chuyển đổi số đòi hỏi cán bộ, công chức phải thay đổi về cả tư duy lẫn cách thức làm việc truyền thống, thủ công sang cách làm việc dựa trên công nghệ số. Điều này đòi hỏi họ phải có kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về công nghệ thông tin, Cách mạng công nghiệp 4.0 bao gồm: kỹ năng tiếp cận khai thác chia sẻ thông tin trên cơ sở hiểu biết về các hệ thống thông tin của khách thể kiểm toán và các chủ thể có liên quan; kỹ năng đảm bảo an ninh, an toàn mạng và bảo mật thông tin kiểm toán khi khai thác và tìm kiếm thông tin; kỹ năng sử dụng AI, học máy, AI Chatbot (AI chatbot là các hệ thống dựa trên phần mềm được thiết kế nhằm tương tác với người dùng thông qua phương pháp xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP) và trí tuệ nhân tạo [5]; Chatbot thường được gọi là trợ lý ảo) để phân tích dữ liệu. Việc đào tạo và phát triển nhân lực để có đủ nguồn nhân lực chất lượng và đáp ứng yêu cầu của kinh tế số và Chính phủ số là việc làm cấp bách trước mắt cũng như lâu dài và phải được ưu tiên trong giai đoạn hiện nay. Nhưng nên nhớ rằng, công nghệ thông tin tập trung vào người viết phần mềm, do đó các tổ chức tập trung vào việc đi tìm người giỏi phần mềm. Song trong chuyển đổi số lại chú trọng tập trung vào người sử dụng phần mềm. Coi trọng vào việc đặt ra các bài toán để giải quyết các vấn đề trong hoạt động kiểm toán, quan tâm vào việc sử dụng ngay từ giai đoạn phát triển ban đầu và đóng góp cho phần mềm thông minh dần lên. Phần mềm thông minh là mục tiêu cuối cùng, và để làm được việc này thì đóng góp tri thức của người dùng có ý nghĩa quyết định. Người dùng xuất sắc thì tạo ra phần mềm xuất sắc. Do đó, Kiểm toán nhà nước cần đào tạo và rèn luyện kỹ năng cho kiểm toán viên các công cụ của Cách mạng công nghiệp 4.0. Và nếu người đứng đầu là người dùng xuất sắc điều đó thật tuyệt vời và chắc chắn chuyển đổi số sẽ thành công như mong đợi. Bởi Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đơn thuần là cuộc cách mạng về công nghệ mà còn là cuộc cách mạng về cơ chế và tư duy.
Tài liệu tham khảo
1. Phạm Thị Thu Hà, Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Kiểm toán nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, Số 198-4/2024;
2. Nguyễn Đình Hòa, Cách mạng 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với Kiểm toán viên nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, Số 121-11/2017;
3. Klaus Schwab, 2016, The Fourth Industrial Revolution, 2016; World Economic Forum;
4. Mike Gault, Forget Bitcoin - What Is the Blockchain and Why Should You Care?, 2015;
5. Sidlauskiene,J, Joye,Y & Auruskeviciene.V (2023) AI-based chatbots in conversational commerce and their effects on product and price perceptions. Electron Makets 33,24
Tác giả:
PGS.TS. Nguyễn Đình Hòa Nguyên Q. Giám đốc Trường Đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán
(Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán tháng 7/2024)