Thứ sáu, 7/11/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ sáu, 7/11/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI 1 SỐ NƯỚC OECD

Tại các nước OEDC (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế), yêu cầu nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong hoạt động của chính phủ đã khiến các quốc gia này quan tâm nhiều hơn đến chức năng kiểm toán nội bộ

 

Kiểm toán nội bộ tại 1 số nước OECD

KINH NGHIỆM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN

KIỂM TOÁN NỘI BỘ TẠI MỘT SỐ NƯỚC OECD

Ths. Đặng Thị Hoàng Liên

 

Ngày nay, kiểm toán nội bộ được xem như một bộ phận không thể thiếu trong hoạt động quản lý tài chính chính phủ, là một công cụ hiệu quả nhằm cải thiện hoạt động của khu vực nhà nước. Tại các nước OEDC (Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế), yêu cầu nâng cao trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong hoạt động của chính phủ đã khiến các quốc gia này quan tâm nhiều hơn đến chức năng kiểm toán nội bộ. Trên cơ sở nghiên cứu mô hình kiểm toán nội bộ của các nước OECD, bài viết chỉ ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.

1. Mô hình kiểm toán nội bộ của các nước OECD

Mặc dù, việc xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các nước OECD là khá đa dạng nhưng đều thuộc vào một trong hai mô hình chính: (1) mô hình tập trung và (2) mô hình phi tập trung.

Trong mô hình tập trung, Bộ Tài chính không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc lập dự toán ngân sách, phân bổ ngân sách cho các Bộ, mà còn can thiệp vào các hoạt động kiểm soát cũng như cử nhân viên của mình trực tiếp làm việc tại các Bộ. Theo mô hình này, Tổng Thanh tra trong Bộ Tài chính sẽ chịu trách nhiệm kiểm soát thu - chi tài chính công của chính phủ và báo cáo trực tiếp lên Bộ Tài chính về kết quả kiểm soát của mình. Tuy nhiên, mỗi Bộ, ngành cũng có các kiểm toán viên nội bộ hay còn gọi là các Chánh Thanh tra. Mô hình này thường được thấy ở Pháp, Bồ Đào Nha, Luxembourg và Tây Ban Nha.

Trong mô hình phi tập trung, mỗi Bộ sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc chi tiêu ngân sách của mình và đảm bảo thực hiện công tác kiểm tra và kiểm soát cách thức chi tiêu một cách hợp lý. Theo mô hình này, các Bộ, ngành không phải chịu sự kiểm soát bên ngoài của Bộ Tài chính. Các hoạt động ngoại kiểm được hợp nhất vào quy trình thực hiện ngân sách của các Bộ, ngành. Bộ Tài chính chịu trách nhiệm xây dựng và ban hành các chuẩn mực về hoạt động kiểm toán nội bộ. Mô hình này được áp dụng ở Anh và Hà Lan.

Tuy nhiên, trên thực tế, có những quốc gia thuộc OECD lại áp dụng hỗn hợp hai mô hình trên.

a. Mô hình kiểm toán nội bộ của Pháp

Mô hình kiểm toán nội bộ của Pháp thiên về mô hình tập trung. Tại Pháp, Tổng Thanh tra Tài chính là kiểm toán viên nội bộ của Bộ Tài chính, không chỉ kiểm tra hoạt động của Bộ Tài chính mà còn kiểm soát toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, hầu hết các Bộ, ngành đều có kiểm toán viên nội bộ riêng. Các kiểm toán viên này chịu sự quản lý của Ban Quản lý thuộc Bộ và phải gửi báo cáo về hoạt động của mình cho Ban này. Chức năng kiểm toán nội bộ do “các kế toán công” thực hiện và được quản lý tập trung. Hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của kiểm toán viên nội bộ do Cơ quan Kiểm toán Nhà nước của Pháp thẩm định. Đồng thời, các Tổng thanh tra cũng thực hiện chức năng giám sát hoạt động của kiểm toán nội bộ. Tổng Thanh tra Tài chính gửi báo cáo trực tiếp cho Bộ trưởng Bộ Tài chính về hoạt động của các cơ quan, tổ chức nhà nước và thực hiện chức năng kiểm tra tổng thể, mà không dừng lại ở chức năng kiểm toán tính tuân thủ. Bên cạnh đó, ở Pháp còn có 21 Chánh Thanh tra chịu trách nhiểm kiểm tra hoạt động tài chính các Bộ, ngành và các chương trình cụ thể (ví dụ chương trình giáo dục, y tế, an ninh…). Tương tự như Tổng Thanh tra Tài chính, các Chánh Thanh tra đóng vai trò giám sát và điều tra cũng như thực hiện những nghiên cứu và điều tra chuyên đề.

Ngoài ra, mỗi Bộ còn có một Kiểm soát viên Tài chính thực hiện vai trò tiền kiểm. Không có một hoạt động tài chính nào thực hiện được mà không có sự thông qua của kiểm soát viên này. Các kiểm soát viên này là cán bộ do Bộ Tài chính cử đến các Bộ để thực hiện kiểm soát việc chấp hành ngân sách của các Bộ, ngành. Sự xuất hiện của các kiểm soát viên này khiến vai trò của kiểm toán nội bộ trở nên hạn chế hơn, mặc dù các Bộ lớn (ví dụ, Bộ Xã hội, Bộ Giao thông, Bộ Nội vụ) đều có bộ phận kiểm toán nội bộ thực hiện chức năng điều tra. Hoạt động của các kiểm soát viên này thường được kết hợp với hoạt động của Tổng Thanh tra Tài chính, còn Cơ quan Kiểm toán Nhà nước Pháp chịu trách nhiệm ngoại kiểm, có vai trò báo cáo lên Tổng thống về các vấn đề quản lý tài chính và hàng năm trình bày sổ sách tài chính trước Quốc hội.

b. Mô hình kiểm toán nội bộ của Bồ Đào Nha

Giống như Pháp, Bồ Đào Nha cũng áp dụng mô hình kiểm toán nội bộ tập trung. Trách nhiệm kiểm soát tài chính của tất cả các cơ quan nhà nước được thực hiện một cách tập trung. Tổng Thanh tra Tài chính của Bồ Đào Nha chịu trách nhiệm kiểm soát tổng thể đối với việc thu - chi tài chính công. Ban Giám đốc Ngân sách chung chịu trách nhiệm thực hiện ngân sách nhà nước; Hiệp hội quản lý Tài chính về An ninh xã hội chịu trách nhiệm đối với ngân sách an ninh xã hội.

Chánh Thanh tra của mỗi Bộ, ngành thực hiện chức năng kiểm soát nội bộ của ngành; tập trung hoạt động kiểm soát nội bộ tại các đơn vị hoạt động. Bộ phân kiểm toán của các đơn vị hoạt động chịu trách nhiệm thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ và tập trung vào việc kiểm tra các hoạt động quản lý. Kết quả mà bộ phận kiểm toán này thu được sẽ trở thành đầu vào cho các cuộc kiểm toán cấp cao hơn. 

c. Mô hình kiểm toán nội bộ của Anh

Anh áp dụng mô hình kiểm toán nội bộ phi tập trung. Kiểm toán viên kiểm toán nội bộ do các Bộ, ngành tuyển dụng và quản lý. Kiểm toán viên nội bộ chịu trách nhiệm báo cáo hoạt động của mình lên cán bộ tài chính cấp cao nhất của Bộ, “kế toán trưởng”. Tại Anh, kiểm toán nội bộ của các Bộ, ngành phát triển rất mạnh và tập trung vào các vấn đề mang tính hiệu quả. Bộ Tài chính biên soạn và phát hành các chuẩn mực và hướng dẫn hoạt động kiểm toán nội bộ. Hoạt động ngoại kiểm do Văn phòng Kiểm soát viên và Tổng kiểm toán (C&AG) thuộc Cơ quan Kiểm toán quốc gia Vương Quốc Anh (NAO) thực hiện. Ở Anh, Ủy ban Kiểm toán được thiết lập cùng thời gian với NAO và chịu trách nhiệm kiểm toán tại địa phương, các dịch vụ an ninh và y tế quốc gia. Ủy ban này cử các kiểm toán viên tới chính quyền các địa phương và các cơ quan y tế quốc gia để thực hiện hoạt động kiểm toán của mình.

Hệ thống kiểm toán nội bộ của Anh hiện nay vẫn chủ yếu tuân theo mô hình phi tập trung và kế thừa mô hình chính quyền Westminster (một địa danh của Anh) - mô hình cho phép có sự linh hoạt trong hoạt động của kiểm toán nội bộ. Theo mô hình này, Bộ Tài chính không phải là cơ quan quản lý mà đóng vai trò là cơ quan giám sát. Bộ Tài chính ban hành các thủ tục kiểm toán nội bộ, tư vấn và hỗ trợ “các kế toán viên” trong việc quản lý và hạch toán tài chính công; đồng thời không phải chịu trách nhiệm về bất kỳ sự vi phạm quản lý tài chính ngoại trừ những gì liên quan đến các quỹ do Bộ Tài chính trực tiếp quản lý. “Các kế toán viên” thuộc Bộ Tài chính chịu trách nhiệm giải trình về tiền và tài sản công. Thông thường Thư ký Thường trực phụ trách việc chi tiêu của các Bộ, ngành sẽ kiểm soát các khoản kinh phí được Quốc hội phê chuẩn đồng thời giải trình về việc chi tiêu của mình trước C&AG, sau đó kiểm toán viên bên ngoài sẽ chịu trách nhiệm giải trình kết quả kiểm toán trước Quốc hội.

Như đã nói ở trên, mô hình Westminster cho phép có sự linh hoạt trong việc giải trình về quyền hạn của những người có liên quan đến quy trình ngân sách nhà nước. Trong hệ thống này, chức năng kiểm toán nội bộ được thiết lập phù hợp với quyền hạn và chức năng của Bộ Tài chính liên quan đến trách nhiệm quản lý, giám sát, kiểm soát và hướng dẫn các vấn đề về hoạt động tài chính của chính phủ. Kiểm toán nội bộ được coi là một bộ phận hỗ trợ cho Bộ Tài chính trong việc giám sát việc tuân thủ các quy định tài chính, hướng dẫn và thủ tục kế toán của các Bộ, ngành. Kiểm toán nội bộ cũng có vai trò trợ giúp các cấp quản lý trong việc thực hiện trách nhiệm của mình thông qua việc gửi báo cáo kiểm toán với những kiến nghị và biện pháp thực hiện.

d. Mô hình kiểm toán nội bộ của Hoa Kỳ

Nhìn chung, Hoa Kỳ áp dụng mô hình kiểm toán nội bộ phi tập trung. Văn phòng Kiểm toán Hoa Kỳ (GAO) chịu trách nhiệm ngoại kiểm, đánh giá hoạt động các Bộ, ngành theo sự phân công của Quốc hội. Trong khi đó, kiểm toán viên nội bộ của Hoa Kỳ lại chịu trách nhiệm quản lý của các tổ chức. Mô hình kiểm toán nội bộ đầu tiên của Hòa Kỳ được áp dụng bắt nguồn từ khu vực tư nhân: các tổ chức kiểm toán nội bộ độc lập với các bộ phận sản xuất và tài chính của công ty, lập báo cáo và gửi lên ban điều hành cấp cao của công ty, bao quát toàn bộ các hoạt động kiểm soát quản lý của đơn vị. Tuy nhiên, theo thời gian, mô hình này đã được điều chỉnh. Từ năm 1978, khi Luật Tổng Thanh tra được ban hành, mỗi Bộ, ngành được bố trí một Tổng Thanh tra, với tư cách là người đứng đầu bộ phận kiểm toán nội bộ của Bộ, ngành đó. Tổng Thanh tra độc lập với các bộ phận khác của Bộ, ngành và báo cáo kết quả hoạt động của mình trực tiếp lên người đứng đầu của Bộ, ngành và Quốc hội. Tổng Thanh tra phải nộp báo cáo thường niên về hoạt động kiểm toán cho người đứng đầu của Bộ, ngành. Sau khi nhận được báo cáo thường niên này, người đứng đầu Bộ, ngành sẽ bổ sung ý kiến của mình vào bản báo cáo rồi gửi bản báo cáo này lên Quốc hội trong vòng 30 ngày. Bản báo cáo này bao gồm cả quan điểm của bộ phận kiểm toán nội bộ với tư cách là một dịch vụ phục vụ quản lý và báo cáo lên Quốc hội, mặc dù gián tiếp nhưng nó cũng chịu trách nhiệm ngoại kiểm.

Ngoài hai mô hình trên, thực tế cho thấy ở các nước thuộc OECD còn có những mô hình kiểm toán nội bộ khác, thể hiện sự kết hợp giữa chức năng ngoại kiểm và nội kiểm. Ví dụ, ở Đức, kiểm toán nội bộ không thuộc hệ thống kiểm soát của cơ quan nhà nước, mà là một bộ phận cấu thành của kiểm toán bên ngoài (ngoại kiểm). Trong khi đó, kiểm toán viên nội bộ lại làm việc trong các cơ quan nhà nước, họ tuân thủ theo hướng dẫn kỹ thuật và nghề nghiệp cũng như chịu sự giám sát của Cơ quan kiểm toán Tối cao Đức, cơ quan Kiểm toán Liên bang. Họ chỉ báo cáo hoạt động của mình lên Cơ quan Kiểm toán Tối cao và thực hiện vai trò tiền kiểm thay vì vai trò kiểm toán nội bộ truyền thống.

Tương tự như vậy, Văn phòng Kiểm toán Thụy Điển có vị trí cũng không rõ ràng. Cơ quan này vừa thuộc quyền quản lý của Bộ Tài chính, vừa hoạt động độc lập với cơ quan hành pháp và hoàn toàn độc lập trong việc lựa chọn chủ đề kiểm toán cũng như lập báo cáo kiểm toán. Tổng Kiểm toán do Nội các bổ nhiệm với nhiệm kỳ 6 năm.

 

 

 

2. Một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong việc xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, bài viết rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.

Thứ nhất, dù áp dụng phương pháp tiếp cận nào để xây dựng kiểm toán nội bộ (mô hình tập trung hay phi tập trung) thì cũng cần cân nhắc một số nguyên tắc sau: (1) kiểm toán nội bộ phải được coi là một bộ phận cấu thành quan trọng trong các thủ tục kiểm soát tài chính nội bộ nhằm bảo đảm lợi ích tài chính của các cơ quan, tổ chức nhà nước; (2) mặc dù tập trung chủ yếu vào kiểm toán tính tuân thủ nhưng chức năng kiểm toán nội bộ cần được mở rộng ra với các thủ tục kiểm toán chi tiết, kiểm tra hệ thống, hoạt động và kiểm toán công nghệ thông tin; (3) để thực hiện một các hiệu quả, chức năng kiểm toán nội bộ phải độc lập với hoạt động quản lý thường nhật của cơ quan, tổ chức, nhưng đồng thời phải có sự liên hệ trực tiếp với ban quản lý cấp cao nhất để đảm bảo rằng các phát hiện và kiến nghị của kiểm toán nội bộ sẽ được thực hiên hợp lý; (4) hoạt động kiểm toán nội bộ phải được thực hiện trên cơ sở áp dụng và tuân thủ các chuẩn mực quốc tế.

Thứ hai, chiến lược phát triển chức năng kiểm toán nội bộ được xây dựng trên cơ sở kết hợp nhiều nhân tố như: định hướng kiểm soát và quản lý (mục tiêu của kiểm toán nội bộ); mức độ tập trung của kiểm toán nội bộ trong tổ chức (cách thức tổ chức kiểm toán nội bộ); mối quan hệ giữa kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài (trách nhiệm và sự phối hợp); và hệ thống hóa các kinh nghiệm trong hoạt động kiểm toán nội bộ (cải tiến chức năng kiểm toán nội bộ).

Thứ ba, mục tiêu kiểm toán nội bộ cũng là một cơ sở để xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Thực tế nghiên cứu kinh nghiệm kiểm toán nội bộ của các quốc gia cho thấy có rất nhiều cách hiểu khác nhau về vai trò của kiểm toán nội bộ. Theo mô hình kiểm toán nội bộ tập trung, kiểm toán nội bộ được coi là một chức năng của Bộ Tài chính, hỗ trợ Bộ Tài chính trong việc kiểm soát sự tuân thủ của các Bộ, ngành đối với các quy định, hướng dẫn và chế độ kế toán của Bộ Tài chính. Mục tiêu kiểm toán nội bộ trong mô hình này nhấn mạnh sự tuân thủ và hoạt động kiểm soát. Trong khi đó, với mô hình phi tập trung, thông qua việc đảm bảo các nguồn lực công được sử dụng một cách hiệu quả, kiểm toán nội bộ đã giúp các nhà quản lý ngân sách đưa ra được các biện pháp điều chỉnh hợp lý. đồng thời đưa ra các kiến nghị thích hợp để nâng cao hiệu lực quản lý lại có vai trò hỗ trợ các nhà quản lý ngân sách. Do đó, mục tiêu của kiểm toán nội bộ trong mô hình phi tập trung là nhằm nhấn mạnh tính hiệu quả và hiệu lực của việc sử dụng các nguồn lực và thực hiện các dịch vụ. Như vậy, việc xây dựng chức năng kiểm toán nội bộ cần phải dựa trên cơ sở các ưu tiên của mỗi quốc gia. Đối với các quốc gia đang gặp các vấn đề về quản trị, thì mục tiêu tiên quyết là cần đảm bảo tính tuân thủ luật và quy định về tài chính. Còn đối với các quốc gia đang phải đối mặt với các áp lực tài chính thì cần phải đảm bảo các mục tiêu kinh tế vĩ mô.

Thứ tư, lựa chọn mức độ tập trung của chức năng kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Theo kinh nghiệm của các nước OEDC, mô hình kiểm toán nội bộ tập trung giúp duy trì và phát triển sự chuyên nghiệp của các kiểm toán viên nội bộ; đổng thời nâng cao tính độc lập của bộ phận kiểm toán nội bộ. Vì kiểm toán nội bộ do Bộ Tài chính quản lý, không thuộc sự kiểm soát trực tiếp của các Bộ, ngành. Tuy nhiên, mô hình này cũng có một số nhược điểm như: làm giảm trách nhiệm giải trình của Ban quản lý Bộ, ngành; hạn chế hiệu lực vì thiếu tính minh bạch; và thiếu sự phối hợp với các ban, ngành khác. Do vậy, khi lựa chọn áp dụng mô hình kiểm toán nội bộ tập trung hay phi tập trung thì cần cân nhắc điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia. Khi áp dụng mô hình tập trung hoàn toàn, Bộ Tài chính sẽ chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của hoạt động quản lý tài chính trong các cơ quan, tổ chức nhà nước, thực hiện trách nhiệm giải trình của các nhà quản lý tài chính. Nếu rủi ro từ những can thiệp mang tính chính trị đối với hoạt động quản lý ngân sách là cao thì việc xây dựng mô hình kiểm toán nội bộ tập trung này cần phải cân nhắc hơn. Tại một số quốc gia, các cơ quan ngoại kiểm yếu kém cũng hàm ý rằng nguy cơ can thiệp mang tính chính trị là khá cao. Ngoài ra, ở đâu năng lực thực hiện chức năng kiểm toán nội bộ là yếu kém liên quan đến năng lực của đội ngũ kiểm toán viên nội bộ thì cần phải xem xét lại hệ thống kiểm soát tập trung của Bộ Tài chính.

Thứ năm, đảm bảo tính độc lập của kiểm toán nội bộ là nền tảng quan trọng đối với việc xây dựng và phát triển kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước. Mục tiêu chính của việc thiết lập chức năng kiểm toán nội bộ là phải đảm bảo được tính độc lập của chức năng này với các hoạt động quản lý thường nhật của các đơn vị, tổ chức. Thực tế cho thấy, mức độ độc lập của kiểm toán nội bộ không giống với hoạt động ngoại kiểm - báo cáo được trình lên Quốc hội. Theo IIA, tính độc lập của kiểm toán nội bộ được quy định như sau: “Các kiểm toán viên nội bộ là độc lập khi thực hiện công việc của mình một cách khách quan. Tính độc lập cho phép các kiểm toán viên độc lập có thể đưa ra các phán đoán công bằng và vô tư khi tiến hành các cuộc kiểm toán…”. Trong trường hợp lý tưởng, các kiểm toán viên nội bộ cần phải chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng hoặc giám đốc điều hành của các Bộ, ngành. Trong mô hình phi tập trung, kiểm toán viên nội bộ sẽ báo cáo trực tiếp kết quả hoạt động của mình lên cán bộ cao nhất này. Còn trong mô hình tập trung, kiểm toán viên nội bộ phải báo cáo trực tiếp lên Bộ trưởng Bộ Tài chính để đảm bảo tính độc lập của mình. Kiểm toán viên nội bộ là nhân viên của Bộ, ngành và chịu trách nhiệm trước người đứng đầu của Bộ, ngành thì đã vi phạm nguyên tắc cốt yếu của kiểm toán đó là: một kiểm toán viên không được kiểm toán bản thân mình. Chính vì vậy, việc xác định rõ nhiệm vụ của kiểm toán viên nội bộ là một trong những công việc tiên quyết khi thiết lập chức năng kiểm toán nội bộ tại các cơ quan, tổ chức nhà nước, đồng thời tránh được những mâu thuẫn phát sinh khi kiểm toán viên nội bộ thực hiện nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, việc thiết lập Ủy ban kiểm toán tại các Bộ, ngành cũng là một giải pháp của một số quốc gia. Thành viên của Ủy ban này thuộc ban quản lý cấp cao của các cơ quan, tổ chức và là các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Mục tiêu của Ủy ban này là nhằm điều hành hoạt động kiểm toán nội bộ, phát hiện các vấn đề vướng mắc và kịp thời đưa ra các biện pháp điều chỉnh hoặc ngăn ngừa. Điều này không chỉ tăng cường vai trò của kiểm toán nội bộ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước mà còn tạo sự tách biệt giữa hoạt động của đơn vị với hoạt động đánh giá của kiểm toán nội bộ. Nhiều quốc gia khác lại nhờ các cơ quan ngoại kiểm độc lập thực hiện hoạt động kiểm toán nội bộ theo định kỳ 2 - 3 năm một lần. Tính độc lập của kiểm toán nội bộ cũng liên quan đến việc phân định ranh giới rõ ràng về trách nhiệm của kiểm toán nội bộ và kiểm toán bên ngoài. Điều này có thể được giải quyết khi xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ. Bên cạnh đó, cũng cần xem mối quan hệ giữa chức năng nội kiểm và ngoại kiểm như một sự “cộng sinh” - có tác dụng hỗ trợ cả hai chức năng phát triển. Nhưng trong trường hợp này, cả hai chức năng này đều phải mạnh và hiệu quả để hoạt động kiểm toán bên ngoài có thể sử dụng kết quả của kiểm toán nội bộ và kiểm toán nội bộ cũng có thể tham khảo kết quả phát hiện của hoạt động ngoại kiểm.

Tài liệu tham khảo:

1. Havers, H.S “The Role of Internal Auditing in Management Control System in Government: A U.S. Perspective,”, OECD, 1998;

2. OECD SIGMA, “Management Control in Modern Government Administration: Some Comparative Practices,” Paris, 2005.

Lượt xem: 1

Cần triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ tăng trưởng

Ông Sacha Dray, Chuyên gia Kinh tế của Ngân hàng Thế giới (WB), cho rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã đạt kết quả tích cực trong nửa đầu năm nay song vẫn còn nhiều thách thức trong những tháng cuối năm, chủ yếu do sự bất định từ môi trường kinh tế bên ngoài. Do đó, cần các giải pháp hiệu quả để cải thiện hoạt động của doanh nghiệp và tiếp tục thúc đẩy giải ngân đầu tư công. Theo ông, kinh tế Việt Nam từ đầu năm đến nay có điểm gì nổi bật? Trong nửa đầu năm 2025, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khả quan, đạt mức 7,5%, cao hơn so với khu vực, vượt xa các nền kinh tế lớn của ASEAN như Thái Lan, Philippines, Indonesia, Malaysia. Tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng cao nhờ xuất khẩu tăng mạnh do các doanh nghiệp đang đẩy mạnh đơn hàng xuất đi trong bối cảnh bất định về chính sách thương mại toàn cầu. Tăng trưởng trên có được là nhờ xuất khẩu tăng lên đến 14,2% trong nửa đầu năm 2025 (so cùng kỳ), bao gồm xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ tăng mạnh, lên đến 28,3%, trước dự kiến thuế quan gia tăng trong thời gian tới. Nhập khẩu cũng tăng 16,0% trong nửa đầu năm 2025 (so cùng kỳ) để đáp ứng nhu cầu sản xuất để đảm bảo tiến độ xuất khẩu. Tăng trưởng đầu tư theo giá so sánh đạt 8,0% (so cùng kỳ), so với 6,7% trong nửa đầu năm 2024 (so cùng kỳ), nhờ đầu tư nước ngoài vẫn đứng vững và đầu tư công được đẩy mạnh. Tiêu dùng cuối cùng trong nửa đầu năm 2025 tăng 8,0%, so với 5,8% (cùng kỳ năm ngoái), nhờ du lịch khởi sắc. Nhìn trên góc độ cung, các lĩnh vực chế biến, chế tạo vẫn đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế (ở mức 30,7% cho tăng trưởng GDP trong nửa đầu năm 2025), tiếp theo là các dịch vụ liên quan đến thương mại (8,3%). Khu vực dịch vụ đóng góp gần một nửa tổng tăng trưởng kinh tế trong sáu tháng đầu năm 2025. Kết quả này cũng vượt trội so với thành tích mà Việt Nam đạt được trong 10 năm qua, nếu không tính giai đoạn phục hồi sau COVID-19. Nói cách khác, nền kinh tế đã có một màn thể hiện rất ấn tượng, phần lớn nhờ vào sự gia tăng xuất khẩu. Sự tăng trưởng xuất khẩu này đã thúc đẩy sản xuất hàng công nghiệp, đồng thời kéo theo sự phát triển của các dịch vụ thương mại như vận tải và logistics. Ông đánh giá như thế nào về công tác điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ từ đầu năm đến nay? Từ đầu năm 2025 tới nay, chính sách tài khóa được thực hiện theo hướng mở rộng linh hoạt thông qua đầu tư công. Theo đó, đầu tư công mở rộng cả ở cấp trung ương và địa phương cho các dự án hạ tầng lớn về giao thông, năng lượng, đồng thời, tác động lớn với nhu cầu về nguyên vật liệu. Tuy nhiên, cần thêm thời gian để hiện thực hóa tác động này với tăng trưởng kinh tế và sẽ càng thể hiện rõ hơn trong trung hạn. Cùng với chính sách tài khóa mở rộng, chính sách tiền tệ được nới lỏng khi Ngân hàng Nhà nước dùng nhiều biện pháp can thiệp để kiềm chế áp lực tỷ giá và đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Chính sách tiền tệ nới lỏng trên đã hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, với lãi suất chính sách thực về gần bằng không. Đến ngày 31/8/2025, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam đạt 26,14 tỷ USD, tăng mạnh 27,3% so với cùng kỳ năm 2024. Đây có phải là kết quả khả quan không, thưa ông? Dù bối cảnh toàn cầu bất ổn, FDI vào Việt Nam vẫn bền bỉ, vốn giải ngân từ các doanh nghiệp nước ngoài đã tăng đáng kể. Các cam kết cho tương lai cũng duy trì tích cực. Kết quả này có được một phần nhờ cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường kinh doanh. Việc đặt mục tiêu cắt giảm và đơn giản hóa ít nhất 30% điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ trong năm 2025 là điều rất đáng hoan nghênh và sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư. Một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế là đầu tư công, ông đánh giá như thế nào về tốc độ giải ngân đầu tư công với tăng trưởng kinh tế? Tính đến tháng 8/2025, mức giải ngân đạt khoảng 40% so với kế hoạch đề ra. Tốc độ giải ngân vốn đầu tư công đã cải thiện cả ở cấp trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, điểm tích cực khác là cam kết chính trị mạnh mẽ trong việc tiếp tục thúc đẩy đầu tư công, thông qua việc thành lập các cơ quan, ủy ban mới để phối hợp nâng cao hiệu quả giải ngân. Tuy nhiên, nhiều khó khăn trong khâu triển khai đã tồn tại lâu dài và đến nay vẫn chưa được khắc phục triệt để. Một số biện pháp đã được triển khai sẽ cần thời gian để phát huy hiệu quả. Ví dụ, việc sáp nhập các tỉnh, thành hoặc điều chỉnh Luật Đầu tư công chắc chắn sẽ có tác động tích cực, nhưng trong ngắn hạn có thể gây ra gián đoạn, ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân. Một số biện pháp có thể hỗ trợ gồm: Trao thêm quyền linh hoạt trong việc điều chỉnh dự án trong suốt vòng đời đầu tư; tiếp tục tinh giản thủ tục, tăng cường giám sát, cũng như nâng cao hiệu quả ứng dụng thông tin trong theo dõi, quản lý dự án. Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng khá tham vọng trong năm nay, khoảng 8,3% – 8,5%. Vậy ông có khuyến nghị gì để Việt Nam đạt được mục tiêu này? Dù tăng trưởng kinh tế đạt kết quả tích cực trong những tháng vừa qua song trong những tháng còn lại của năm, những bất định từ môi trường toàn cầu, đặc biệt là các biện pháp thuế quan mới và sự thiếu ổn định trong chính sách thương mại sẽ tiếp tục hiện hữu và có thể tác động đến tăng trưởng. Một phần động lực tăng trưởng trong nửa đầu năm đến từ việc xuất khẩu tăng trước thời hạn, nhằm đón đầu các mức thuế cao hơn, nhưng xu hướng này sẽ chấm dứt trong nửa cuối năm. Vì vậy, chúng tôi dự báo tăng trưởng sẽ chậm lại trong nửa cuối năm, với mức tăng trưởng chung đạt 6,6% trong năm 2025 và 6,1% trong năm 2026. Đây vẫn là kết quả rất tích cực, đặc biệt trong bối cảnh môi trường bên ngoài bất lợi. Chính phủ Việt Nam có thể triển khai một số chính sách để duy trì đà tăng trưởng hiện tại và giảm thiểu rủi ro, cả từ bên ngoài lẫn trong nước.  Thứ nhất, trong lĩnh vực thương mại, tiếp tục thúc đẩy các nỗ lực nhằm giảm bớt bất định xoay quanh chính sách thương mại, chẳng hạn như vấn đề trung chuyển hay tận dụng các thị trường khác để đa dạng hóa vị thế của Việt Nam. Thứ hai, tiếp tục cắt giảm các rào cản phi thuế quan, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, không chỉ tập trung vào hàng hóa công nghiệp mà còn mở rộng sang dịch vụ, dịch vụ số và các sản phẩm công nghệ cao có giá trị gia tăng lớn. Thứ ba, tăng cường vai trò của doanh nghiệp trong nước để kích thích tiêu dùng tư nhân, qua đó duy trì đà tăng trưởng trong ngắn hạn. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam đang triển khai các kế hoạch đẩy mạnh đầu tư công. Đây là hướng đi rất tích cực để hỗ trợ tăng trưởng, nhằm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao của Chính phủ và tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trung hạn. Trân trọng cảm ơn ông!  Xuân Anh (thực hiện)  (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)

Bỏ hạn mức tín dụng, cần tăng cường các công cụ kiểm soát rủi ro hiệu quả

Tại Công điện số 159/CĐ-TTg ngày 07/9/2025 về định hướng chỉ đạo, điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xây dựng có lộ trình và thí điểm việc gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để thực hiện từ năm 2026. Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, giảng viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong 14 năm nên cũng cần dỡ bỏ biện pháp hành chính này để phù hợp theo cơ chế thị trường song cần các giải pháp kiểm soát rủi ro hiệu quả. Ông đánh giá như thế nào về việc áp dụng hạn mức tín dụng từ năm 2011 đến nay? Bản chất của hạn mức tín dụng là một công cụ hành chính, giúp kiểm soát lạm phát tốt hơn. Công cụ này đóng vai trò như một van điều tiết dòng vốn chảy vào nền kinh tế, khi chảy quá mạnh thì có thể khóa ngay được. Công cụ hạn mức tín dụng được áp dụng từ năm 2011 sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng vào các năm trước đó. Việc áp dụng này nhằm hạn chế tình trạng tín dụng tăng trưởng quá mức, tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi các chuẩn mực về an toàn vốn chưa được phổ biến rộng rãi, đồng thời dần chuyển sang các biện pháp điều hành dựa trên các chỉ tiêu an toàn theo chuẩn mực quốc tế. Từ đó, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô. Tuy nhiên, công cụ này có hai mặt. Về mặt tích cực, hạn mức tín dụng tạo ra một cơ chế ngắt mạch nhanh và hiệu quả. Về mặt hạn chế, công cụ này mang tính hành chính và sự linh hoạt không cao. Ví dụ, hạn mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước giao cho các ngân hàng là 15%, dù nhu cầu nền kinh tế thấp nhưng các ngân hàng vẫn đẩy tín dụng lên 15%, như vậy, dòng vốn sẽ chảy vào các kênh đầu cơ. Ngược lại, khi nhu cầu nền kinh tế cao hơn mức 15% nhưng tăng trưởng tín dụng lại bị siết chỉ ở mức này thì rõ ràng dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị thiếu vốn. Do đó, tùy vào mục tiêu nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ, nếu không dùng hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể dùng các công cụ thị trường khác để điều hành như lãi suất chính sách, nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán giấy tờ có giá với các thành viên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ví dụ, muốn nới lỏng và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp thì khi không có hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể bơm tiền ra bằng nghiệp vụ thị trường mở. Đến nay, khi hệ thống ngân hàng đã phát triển tích cực, chủ trương bỏ hạn mức tín dụng gắn với việc Ngân hàng Nhà nước chủ động điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường là hoàn toàn xác đáng và hợp lý, thúc đẩy hệ thống tài chính Việt Nam theo thông lệ quốc tế. Theo ông, việc bỏ hạn mức tín dụng từ năm 2026 có hợp lý không? Việc bỏ hạn mức tín dụng nên chọn thời điểm phù hợp, có lộ trình để tránh rủi ro. Bài học từ giai đoạn 2007-2010 vẫn còn nguyên giá trị, lạm phát tăng vọt khi tín dụng chảy quá nhiều ra nền kinh tế với mức tăng trưởng lên đến 25%-28%/năm. Việc bỏ hạn mức tín dụng ở thời điểm này sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể cho vay chủ động hơn nhưng nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ đẩy tăng trưởng tín dụng lên quá cao, ảnh hưởng đến lạm phát cũng như tạo ra những rủi ro cho ổn định vĩ mô. Xét ở khía cạnh khác, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể kiểm soát được dòng vốn chảy ra nền kinh tế bằng các công cụ thị trường như nêu trên. Chẳng hạn, khi lãi suất thực sự được vận hành theo cơ chế thị trường sẽ trở thành công cụ chủ đạo để điều tiết chi phí vốn, định hướng tín dụng vào các khu vực hiệu quả, giảm thiểu rủi ro phát sinh từ tín dụng dễ dãi. Việc xác định lộ trình phù hợp liên quan đến tính sẵn sàng của hệ thống và mức độ hiệu quả của các công cụ thị trường. Nếu hiệu quả rồi thì việc bỏ hạn mức tín dụng sẽ không ảnh hưởng quá nhiều. Nhưng, nếu bỏ hạn mức tín dụng trong khi các công cụ của chính sách tiền tệ theo thị trường chưa thực sự hiệu quả thì cần cân nhắc, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến khá phức tạp và khó lường. Nhìn chung, khi bỏ hạn mức tín dụng thì các ngân hàng sẽ được chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn, bỏ được cơ chế xin - cho. Tùy vào năng lực mà mỗi ngân hàng có thể phát triển nguồn vốn theo khả năng và không bị ảnh hưởng bởi công cụ hành chính. Ngân hàng Nhà nước sẽ giám sát bằng hệ số quản trị rủi ro của các ngân hàng. Những ngân hàng nào có hệ số tốt thì được cho vay trên tỷ lệ vốn nhiều hơn và ngược lại. Bên cạnh việc bỏ hạn mức tín dụng, cần các giải pháp gì để kiểm soát rủi ro trong hệ thống và nền kinh tế, thưa ông? Việc bỏ hạn mức tín dụng là cần thiết song cũng phải rút kinh nghiệm từ bài học lịch sử giai đoạn trước dẫn đến lạm phát ở mức cao. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, cơ quan điều hành sẽ cần xây dựng các mô hình, hệ thống cảnh báo sớm, dự báo chính xác về lạm phát, về tăng trưởng kinh tế và các yếu tố vĩ mô khác. Chẳng hạn ở Mỹ có hệ thống cơ sở dữ liệu kinh tế và tài chính (FRED), tập hợp hàng trăm nghìn chuỗi dữ liệu kinh tế, tài chính, và xã hội từ nhiều nguồn như Cục Thống kê Lao động, Cục Phân tích Kinh tế, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới… nhằm hỗ trợ nghiên cứu và hoạch định chính sách. Trên cơ sở phân tích dữ liệu, cơ quan điều hành có thể đưa ra dự báo lạm phát trong tương lai để thắt chặt tiền tệ từ sớm, không đợi lạm phát xảy ra mới thắt chặt, lúc đó sẽ quá muộn do chính sách tiền tệ luôn có độ trễ. Khi có hệ thống dự báo chính xác thì việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, để kiểm soát tốt rủi ro khi bỏ hạn mức tín dụng, hệ thống ngân hàng cần được bổ sung các biện pháp quản lý tiên tiến, kết hợp với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), nâng chuẩn quản trị rủi ro, hoàn thiện các quy định an toàn và tiếp tục duy trì sự giám sát chủ động từ Ngân hàng Nhà nước. Một điều quan trọng là vai trò truyền thông chính sách, tránh đưa ra thông điệp cho rằng đây là tín hiệu nới lỏng tiền tệ, vô hình trung đẩy kỳ vọng lạm phát. Trân trọng cảm ơn ông! Lê Hường (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)

Việt Nam hướng tới nước thu nhập cao: Vai trò then chốt của thể chế và khu vực tư nhân

Trong bối cảnh kinh tế - thương mại toàn cầu nhiều biến động, Việt Nam đang đặt mục tiêu đầy tham vọng trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045. Theo Chuyên gia kinh tế, PGS.TS. Phạm Thế Anh - Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân), để hiện thực hóa mục tiêu này, Việt Nam cần một chiến lược cải cách toàn diện, tập trung vào hoàn thiện thể chế, cải thiện hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô, thúc đẩy vai trò của khu vực tư nhân và đặc biệt là nâng cao chất lượng thực thi chính sách - điểm hạn chế suốt nhiều năm qua. PGS.TS. Phạm Thế Anh Trưởng Khoa kinh tế học (Đại học kinh tế Quốc dân) Ông đánh giá thế nào về thực trạng nền kinh tế hiện nay và những thách thức chính mà nước ta phải đối mặt trên con đường trở thành nước thu nhập cao vào năm 2045? Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế ấn tượng trong hơn ba thập kỷ qua, với tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,73%/năm và thu nhập bình quân đầu người từ 80 USD/người năm 1990 vươn lên mạnh mẽ đạt 4.700 USD/người năm 2024 theo thông tin từ Ngân hàng Thế giới (WB). Hơn nữa, trong hơn ba thập kỷ qua, Việt Nam đã và đang lựa chọn mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư và hướng ra xuất khẩu. Nếu như vào đầu những năm 1990, tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong GDP của Việt Nam chỉ khoảng dưới 30%, thì con số này đã tăng lên trên 50% vào những năm 2000 và trên 80% trong những năm gần đây, để từ đó trở thành một trong những nền kinh tế có độ mở thương mại lớn nhất thế giới. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ trong cả giai đoạn 1991-2024 là khoảng 17%/năm. Việt Nam còn tham gia đàm phán, ký kết và thực hiện một loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới với các đối tác kinh tế quan trọng, được kỳ vọng sẽ làm thay đổi toàn diện kinh tế Việt Nam trong thập kỷ tới. Cùng với đó, các chính sách ưu đãi về đất đai, thuế, cải thiện môi trường kinh doanh... tiếp tục được thực hiện để thu hút đầu tư nước ngoài nhằm giải quyết vấn đề việc làm và phục vụ mục tiêu xuất khẩu của đất nước. Những năm gần đây, kinh tế vĩ mô của Việt Nam đã được cải thiện nhưng vẫn tồn tại những rủi ro và thách thức nhất định. Nhìn vào những con số và thực tế nền kinh tế thì thấy, tốc độ tăng trưởng GDP đang có xu hướng giảm dần qua các thời kỳ, từ 7,41% trong giai đoạn 1990-1999, xuống còn 7,27% trong giai đoạn 2000-2009, 6,3% trong giai đoạn 2010-2019 và 5,14% kể từ năm 2020 đến nay. Nguyên nhân do mô hình tăng trưởng dựa vào vốn và xuất khẩu đang chạm ngưỡng do năng suất biên của vốn giảm dần. Ngoài ra, việc thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến, chế tạo hướng ra xuất khẩu cũng đang gặp thách thức lớn khi căng thẳng thương mại gia tăng trên toàn cầu. Các nước có xu hướng áp đặt thuế quan và các rào cản thương mại khiến những quốc gia có độ mở thương mại và đầu tư lớn như Việt Nam trở nên dễ bị tổn thương hơn. Ông có thể phân tích sâu hơn về những bất cập trong chính sách tài khóa và tiền tệ, cũng như hướng cải thiện? Khác với nhiều nền kinh tế trên thế giới, chính sách tiền tệ của Việt Nam đang phải “gánh” đa mục tiêu, cùng với kiểm soát lạm phát và ổn định giá trị tiền đồng, đôi khi chính sách này còn phải hỗ trợ tăng trưởng thông qua các kênh thúc đẩy/định hướng tín dụng và hỗ trợ lãi suất, thậm chí là “hỗ trợ” cho chính sách tài khóa trong việc phát hành trái phiếu chính phủ. Điều này dẫn đến thông điệp chính sách thiếu nhất quán, gây tâm lý bất an cho nhà đầu tư và người dân. Để cải thiện, theo tôi, cần tăng cường tính độc lập của Ngân hàng Nhà nước, được toàn quyền theo đuổi mục tiêu lạm phát (khoảng 3% - 4%) và ổn định tỷ giá mà không chịu chi phối từ các yêu cầu ngắn hạn của Chính phủ, như ưu tiên tăng trưởng tín dụng. Ngoài ra, việc can thiệp tiền tệ hiện nay còn mang nặng tính hành chính, đôi khi không tuân theo quy luật thị trường. Công cụ chính sách tiền tệ có tác động thực sự tới thị trường lại là “hạn mức tăng trưởng tín dụng” - mang nặng tính “xin - cho” giữa Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín dụng. Chất lượng tín dụng và đích đến của dòng vốn còn chưa hiệu quả, tiến độ triển khai các chuẩn mực quốc tế về an toàn hệ thống ngân hàng còn chậm, nợ xấu có nguy cơ gia tăng và khó xử lý. Tất cả điều này tạo thêm thách thức cho việc nới lỏng chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng, nên cần những thay đổi và cải thiện hiệu quả hơn. Về chính sách tài khóa, sự bất hợp lý thể hiện ở cơ cấu chi, với chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn, giải ngân đầu tư công chậm và tỷ lệ thu ngân sách/GDP đang ở mức khá cao. Điều này cho thấy, dư địa tài khóa dành cho hàng loạt các dự án đầu tư quy mô lớn là rất hạn chế, đòi hỏi phải có nguồn thu mới bền vững và tái cơ cấu chi tiêu hiệu quả hơn. Theo đó, Việt Nam cần thực hiện đồng thời nhiều giải pháp quan trọng, cần thu hẹp đáng kể chi thường xuyên của bộ máy nhà nước. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy, tinh giản biên chế và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi kém hiệu quả sẽ tiết kiệm được một lượng vốn lớn, có thể tái phân bổ cho đầu tư phát triển hạ tầng. Việt Nam cần tích cực tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống. Chẳng hạn, Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi bởi nhiều lợi ích mà sắc thuế này có thể đem lại. Với xu hướng chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu sang dẫn dắt bởi đầu tư công, ông nhận thấy đâu là những vấn đề còn gây thách thức? Việt Nam đang đặt mục tiêu tăng trưởng GDP cao, ít nhất là 8% cho năm 2025 và hai con số trong những năm tiếp theo, nhằm đưa nền kinh tế từ một nước thu nhập trung bình hiện nay trở thành một nước thu nhập cao vào năm 2045. Vì thế, Việt Nam đang có xu hướng chuyển sang mô hình tăng trưởng dẫn dắt bởi đầu tư công trong bối cảnh căng thẳng thương mại toàn cầu gia tăng. Tuy nhiên, điều này cần các chính sách đồng bộ để nâng cao hiệu quả chi tiêu công, thực hiện sự dịch chuyển hợp lý giữa các khoản chi và khai thác các nguồn thu mới bền vững thay thế cho các nguồn thu kém bền vững hoặc đang làm giảm động lực sản xuất và tiêu dùng. Nếu không làm được, việc tăng mạnh chi tiêu công rất dễ khiến nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nguy cơ thâm hụt ngân sách cao, bất ổn vĩ mô và thậm chí rơi vào khủng hoảng. Thêm vào đó, với dư địa chính sách tiền tệ hạn chế và tỷ lệ tín dụng/GDP đã ở mức cao, việc cố gắng mở rộng tiền tệ để kích thích đầu tư có thể gây ra lạm phát và bong bóng giá tài sản, tạo áp lực lên tỷ giá hối đoái, khiến dòng vốn không đi vào sản xuất và làm suy yếu ổn định kinh tế vĩ mô. Do vậy, Việt Nam phải chọn lọc được các dự án đầu tư công một cách hiệu quả, chủ yếu là các dự án cơ sở hạ tầng trọng điểm, đồng thời cải thiện hệ thống giáo dục và đào tạo để nâng cao kỹ năng cho người lao động, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế đang phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài chất lượng cao. Ngoài ra, Việt Nam cần khắc phục tình trạng giải ngân đầu tư công chậm, sử dụng chính sách thuế để khuyến khích phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Việt Nam cũng cần phải khuyến khích được khu vực tư nhân tham gia các dự án công - tư (PPP) để tận dụng hiệu quả quản lý và công nghệ của họ. Trong các định hướng về phát triển kinh tế bền vững, ông đánh giá thế nào về vai trò của khu vực tư nhân? Khu vực tư nhân Việt Nam đang đóng góp một tỷ trọng lớn trong GDP, thu ngân sách nhà nước, cũng như sử dụng lao động, nhưng tiềm năng còn lớn hơn nhiều. Tuy nhiên, khu vực này còn gặp không ít khó khăn, chẳng hạn như khó tiếp cận vốn, thiếu liên kết với doanh nghiệp FDI, môi trường kinh doanh còn nhiều bất cập… Vừa qua, Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành các nghị quyết về phát triển kinh tế tư nhân, với việc xác định đây là lực lượng quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất lao động, gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia, góp phần xóa đói, giảm nghèo, ổn định đời sống xã hội. Vì thế, các cơ quan liên quan cần chuyển các nghị quyết thành hành động cụ thể, bằng các văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn cụ thể để các doanh nghiệp tư nhân được hưởng thụ, đóng góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Cũng về doanh nghiệp, hiện nước ta đang duy trì một số lượng lớn doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong nhiều lĩnh vực, kể cả những ngành mà sự tham gia của Nhà nước là không cần thiết. Thực trạng này đặt ra nhiều thách thức khi nhiều doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, gây lãng phí nguồn lực quốc gia. Đã đến lúc Việt Nam cần mạnh dạn thoái vốn khỏi các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả, không cần thiết, để dành nguồn lực đầu tư vào các dự án trọng điểm quốc gia mang tính động lực, có khả năng tạo ra giá trị kinh tế và xã hội cao hơn. Bên cạnh đó, nguồn thu từ việc thoái vốn cũng có thể được sử dụng để tham gia cùng các doanh nghiệp tư nhân vào các dự án trọng điểm thông qua hợp tác công - tư (PPP). Làm thế nào để thu hẹp khoảng cách giữa chủ trương và thực thi chính sách nhằm đảm bảo các giải pháp kinh tế vĩ mô được triển khai hiệu quả, thưa ông? Khoảng cách giữa chủ trương và thực thi là nhược điểm lâu nay của Việt Nam. Chủ trương thì đúng, nhưng khi triển khai cụ thể thì thiếu sự chặt chẽ, thiếu đồng bộ. Nhiều chính sách đưa ra rất hợp lý nhưng khi thực hiện lại gặp nhiều vướng mắc, dẫn đến hiệu lực không cao. Do vậy, điều cần thiết bây giờ là tập trung tháo gỡ những nút thắt trong quá trình thực thi để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, thay vì chỉ dừng lại trên giấy tờ hay trong các văn bản chỉ đạo. Việc thực thi cần được theo dõi sát sao hơn, đó là cần có một bộ phận chuyên trách để giám sát, phản ứng nhanh, tiếp nhận thông tin phản ánh từ doanh nghiệp và người dân. Các phản ánh này phải được tổng hợp định kỳ, để nắm bắt kịp thời những vướng mắc, rủi ro trong quá trình triển khai. Trên cơ sở đó, Nhà nước cần đưa ra phản ứng chính sách nhanh chóng, kịp thời, đồng thời giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cơ quan, từng bộ phận có trách nhiệm giải quyết. Cùng với đó là cần đẩy mạnh cải cách thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tăng cường tính minh bạch, dễ dự đoán của chính sách để doanh nghiệp an tâm đầu tư dài hạn. Trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông! Hương Dịu (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 6/2025)

Sửa toàn diện Luật Quy hoạch để đáp ứng nhu cầu phát triển mới

GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khoá 15, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho rằng sau hơn 7 năm thực thi, Luật Quy hoạch năm 2017 (có hiệu lực từ đầu năm 2019) đã mang lại nhiều kết quả tích cực song cũng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất cập trong triển khai. Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi toàn diện Luật tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa 15 vào tháng 10/2025 là cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh mới. GS.TS Hoàng Văn Cường, đại biểu Quốc hội khoá XV, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Ông đánh giá như thế nào về việc thực hiện Luật Quy hoạch năm 2017? Phải khẳng định rằng Luật Quy hoạch ra đời là bước ngoặt quan trọng trong công tác quy hoạch của Việt Nam với điểm mấu chốt là xóa bỏ tình trạng TAÏP CHÍ NGHIEÂN CÖÙU KHOA HOÏC KIEÅM TOAÙN Số 213 | tháng 7/2025 | 59 quy hoạch trở thành “lãnh địa riêng”, thiếu sự liên thông, thậm chí là rào cản của quá trình phát triển của từng ngành, lĩnh vực. Luật Quy hoạch năm 2017 đặt yêu cầu về viêc lập quy hoạch tích hợp, bắt buộc các ngành, lĩnh vực phải phối hợp, liên kết với nhau để lập quy hoạch. Nhờ đó, số lượng quy hoạch từ cấp thấp đến cấp cao giảm đến 97%. Ở mỗi cấp điều hành chỉ có một quy hoạch duy nhất. Đây là bước tiến quan trọng, tạo ra bức tranh tổng thể, đồng bộ về quy hoạch. Luật Quy hoạch năm 2017 hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống quy hoạch quốc gia thống nhất, đồng bộ, đa ngành và liên kết vùng. Đây là một trong những đạo luật then chốt để thể chế hóa các chiến lược phát triển và điều phối không gian quốc gia một cách hiệu quả. Trước khi Luật Quy hoạch ra đời, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về lập, thẩm định, phê duyệt và tổ chức thực hiện quy hoạch gồm có 53 luật, 07 pháp lệnh, 62 nghị định (không kể các văn bản luật, pháp lệnh và nghị định được điều chỉnh, bổ sung), ngoài ra còn có một số luật, pháp lệnh và nghị định có quy định về chấp hành, thực hiện theo quy hoạch. Luật Quy hoạch năm 2017 đã tạo dựng hệ thống quy hoạch quốc gia thống nhất, góp phần thay đổi cơ bản tư duy, phương pháp và nội dung hoạt động quy hoạch theo hướng phù hợp hơn với kinh tế thị trường và thông lệ quốc tế, gắn kết chặt chẽ hơn chu trình chiến lược - quy hoạch - kế hoạch - đầu tư, tăng cường sự liên kết phát triển, đặc biệt là liên kết vùng, thúc đẩy các mục tiêu phát triển đất nước. Theo ông, đâu là những điểm hạn chế, bất cập trong quá trình triển khai Luật Quy hoạch? Qua nhiều năm triển khai Luật Quy hoạch, công tác quy hoạch ngày càng đóng vai trò quan trọng, giúp Nhà nước hoạch định, kiến tạo các động lực phát triển mới; không gian phát triển quốc gia từng bước được tổ chức hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc. Việc triển khai công tác quy hoạch theo cách tiếp cận tổng hợp, đa ngành đã có sự thay đổi rõ rệt về tư duy, nhận thức và hành động của các ngành, các địa phương theo hướng chủ động phối hợp trong quá trình lập quy hoạch và tăng cường liên kết phát triển. Tuy nhiên, do lần đầu tiên triển khai Luật Quy hoạch với các nội dung mới nên vẫn còn nhiều điểm chưa đạt được đồng thuận, thiếu sự đồng bộ trong thực thi. Trong quá trình triển khai Luật Quy hoạch, nhiều địa phương, bộ, ngành đã gặp không ít vướng mắc do các quy định còn chưa rõ ràng, thiếu tính liên kết giữa các loại quy hoạch, hoặc chưa có cơ chế xử lý hiệu quả khi phát sinh xung đột giữa các quy hoạch cùng cấp hoặc khác cấp. Bên cạnh đó, một số nội dung chưa được quy định cụ thể, một số nội dung không còn phù hợp với giai đoạn phát triển mới nên cần sửa đổi để tạo sự thống nhất và hiệu quả trong triển khai. Để Luật Quy hoạch (sửa đổi) phát huy tốt hiệu quả trong công tác quy hoạch đất nước, cần sửa đổi những điểm nào, thưa ông? Yếu tố quan trọng trước hết là làm rõ nội dung về quy hoạch tích hợp với yêu cầu về tính đồng bộ. Theo đó, có thể thực hiện quy hoạch tích hợp theo quy trình là quy hoạch cấp trên mang tính định hướng với các chỉ tiêu cụ thể, sau đó cấp dưới cụ thể hóa định hướng đó và đề xuất điều chỉnh những điểm chưa hợp lý (nếu có). Sau đó, cấp trên tổng hợp, tiếp thu và ấn định để cấp dưới triển khai. Cách làm này sẽ giải quyết tình trạng mâu thuẫn giữa các quy hoạch và có thể phê duyệt đồng thời hoặc lần lượt các quy hoạch. Bên cạnh đó, Luật Quy hoạch (sửa đổi) cần thể hiện rõ tính phân tầng trong quy hoạch giữa quy hoạch quốc gia và quy hoạch chuyên ngành theo hướng khẳng định “hệ thống quy hoạch quốc gia là định hướng chung, quy hoạch ngành được thực hiện theo định hướng quy hoạch quốc gia”. Tư vấn quy hoạch cũng là vấn đề cần quy định rõ tại Luật sửa đổi. Theo đó, để quy hoạch phát huy tiềm năng của vùng, lĩnh vực theo tầm nhìn dài hạn hàng chục, hàng trăm năm thì quy hoạch cần được thực hiện bởi nhân sự và đơn vị tư vấn có chuyên môn sâu và tầm nhìn chiến lược. Việc huy động được các đơn vị tư vấn chuyên nghiệp thực hiện quy hoạch còn giúp tránh được tình trạng quy hoạch trở thành ý chí của những nhà lãnh đạo đương thời, dẫn đến tư duy nhiệm kỳ trong quy hoạch. Để làm được điều đó thì cơ quan tư vấn quy hoạch phải là đơn vị chuyên môn độc lập, lập quy hoạch dựa trên cơ sở khoa học, tính toán phân bổ nguồn lực theo định hướng phát triển hiệu quả và bền vững. Một điểm đáng lưu ý khác là quy hoạch ở cấp dưới phải được cấp trên phê duyệt để tạo sự thống nhất, đồng bộ và có tính liên kết giữa các quy hoạch. Chẳng hạn, quy hoạch tỉnh thì cần được Thủ tướng phê duyệt hoặc Thủ tướng ủy quyền cho một cơ quan có góc nhìn tổng thể để phê duyệt. Tuy nhiên, kế hoạch triển khai quy hoạch phải được phân cấp cho địa phương phê duyệt và thực hiện. Ở khía cạnh khác, cần đưa định hướng ưu tiên đầu tư trong quy hoạch thay cho danh mục dự án ưu tiên. Bởi lẽ, danh mục dự án ưu tiên là liệt kê dự án với quy mô, tính chất, điều kiện cụ thể nên không đảm bảo tầm nhìn tổng quát. Thay vào đó, việc đưa ra định hướng ưu tiên tại Luật sẽ có tính định hướng cho việc triển khai thành nhiều dự án cụ thể. Xin cảm ơn ông! Hà My (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 7/2025)

Tạo nền tảng cho kinh tế tăng tốc những tháng cuối năm

(khoahockiemtoan.vn) - Trong những tháng còn lại của năm 2024, kinh tế Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức từ biến động địa chính trị trên thị trường thế giới. Vì thế, TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho rằng trên những nền tảng đã có, nếu tận dụng tốt cơ hội và duy trì đà tăng trưởng thì Việt Nam có thể hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế.   Những tháng đầu năm đã qua, bà đánh giá như thế nào về thực trạng kinh tế Việt Nam? Kinh tế Việt Nam đã và đang phải đối mặt với những thuận lợi đan xen với khó khăn, thách thức từ bối cảnh quốc tế với những biến động khó lường, phức tạp từ xung đột quân sự, biến động chính trị, bất ổn kéo dài tại một số quốc gia, khu vực. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam vẫn đạt những kết quả quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, tháng sau tích cực hơn tháng trước, quý sau tốt hơn quý trước. Theo đó, tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý II/2024 tăng trưởng tích cực, với tốc độ tăng ước đạt 6,93% so với cùng kỳ năm trước, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 7,99% của quý II/2022 trong các quý II của giai đoạn 2020-2023. GDP 6 tháng đầu năm 2024 tăng 6,42%, chỉ thấp hơn tốc độ tăng 6,58% của sáu tháng đầu năm 2022 trong giai đoạn 2020-2024. Qua 7 tháng đầu năm 2024, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát khi bình quân 7 tháng năm 2024, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 4,12% so với cùng kỳ năm trước và lạm phát cơ bản tăng 2,73%. Đáng lưu ý, việc điều chỉnh lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang từ 01/7/2024 chưa gây áp lực đáng kể đối với diễn biến giá cả trong tháng 7. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của cải cách và hội nhập kinh tế. Các giải pháp cơ cấu lại nền kinh tế, phát triển vùng, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng năng suất lao động, phát triển các mô hình kinh tế mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn) đã giúp thúc đẩy các ngành kinh tế tăng trưởng. Chẳng hạn, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp 7 tháng năm 2024 ước tính tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số Nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 7 tiếp tục duy trì ở mức 54,7, bằng với tháng trước đó. Du lịch cũng có sự phục hồi tích cực khi khách quốc tế đến nước ta đạt gần 10 triệu lượt người, còn số khách du lịch trong nước cũng đạt 79,5 triệu lượt. Hoạt động kinh tế đối ngoại diễn ra sôi động. Tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 18 tỷ USD trong 7 tháng đầu năm, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2023. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện trong 7 tháng đầu năm đạt 12,55 tỷ USD, tăng 8,4%. Điều này cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài duy trì niềm tin và sự lạc quan với thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 440,45 tỷ USD, tăng 17,2% trong 7 tháng năm 2024, cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 14,53 tỷ USD. Hơn nữa, khu vực kinh tế trong nước đã đạt tăng trưởng xuất khẩu cao hơn so với khu vực đầu tư nước ngoài, cho thấy năng lực thích ứng và tận dụng cơ hội của cộng đồng doanh nghiệp trong nước. Cùng những kết quả đạt được, xin bà cho biết cụ thể hơn về những khó khăn và thách thức từ bên ngoài và nội tại nền kinh tế? Triển vọng kinh tế thế giới còn nhiều khó khăn, bất định. Một số nền kinh tế chủ chốt giữ lãi suất điều hành ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát. Cạnh tranh chiến lược về khoa học, công nghệ, thương mại giữa các nền kinh tế lớn, đặc biệt là giữa Mỹ và Trung Quốc, vẫn diễn ra gay gắt, phức tạp. Thiên tai, bão lũ, biến đổi khí hậu tiềm ẩn rủi ro tác động đến nguồn cung và giá cả lương thực, hàng hóa thế giới… Nhiều thị trường quốc tế đã gia tăng quy định nhằm thúc đẩy phát triển bền vững, phát triển các chuỗi giá trị giảm phát thải các-bon. Không ít thị trường gia tăng các biện pháp phòng vệ đối với hàng hóa nhập khẩu. Theo đó, khả năng thâm nhập của hàng Việt Nam xuất khẩu cũng bị ảnh hưởng. Việt Nam cũng cần lưu tâm hơn ở một số lĩnh vực, quy định trong nước. Chẳng hạn, cải cách môi trường kinh doanh chưa tương xứng với những kỳ vọng đặt ra, giải ngân tín dụng tương đối chậm; chi phí của một số hàng hóa, dịch vụ đầu vào chịu áp lực tăng tạo áp lực lên lạm phát. Đáng lưu ý, tác động từ tăng lương cơ sở và tăng lương tối thiểu vùng có thể gây ra lạm phát “chi phí đẩy” nếu không theo dõi, đánh giá sát và có giải pháp kịp thời, đồng bộ. Bên cạnh đó, số lượng doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường tăng nhanh hơn số doanh nghiệp thành lập mới trong 7 tháng đầu năm. Trong khi đó, dù đã có nhiều giải pháp chính sách, năng suất lao động chưa được cải thiện ở mức tương xứng. Khả năng kết nối giữa khối doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn chậm được cải thiện, qua đó ảnh hưởng đến khả năng đóng góp và hưởng lợi từ xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Nhận thức và năng lực chuyển đổi của doanh nghiệp để thích ứng với các xu hướng mới như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh còn tương đối hạn chế. Đâu sẽ là nền tảng để nền kinh tế Việt Nam chống chịu với những khó khăn nêu trên, thưa bà? Những kết quả khả quan về kinh tế - xã hội những tháng đầu năm là cơ sở để Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp gia tăng nỗ lực hơn trong các tháng cuối năm. Cần tiếp tục duy trì khung chính sách bài bản về nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế để mở rộng không gian phát triển cho cộng đồng doanh nghiệp, cải thiện năng suất lao động, bảo đảm các cân đối lớn và bảo đảm an sinh xã hội. Cần lưu ý, Việt Nam cũng đã có những nền tảng quan trọng từ “đổi mới tư duy”. Chính phủ đã quyết liệt chỉ đạo tháo gỡ không ít rào cản về mặt thể chế, chính sách nhằm mở rộng không gian kinh tế, giảm chi phí không cần thiết cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Các quy hoạch được phê duyệt đã lồng ghép những tư duy mới, gắn với phát triển các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... Chuyển đổi số, chuyển đổi xanh có sự gắn kết tương hỗ với nhau và đều ưu tiên thực hiện khẩn trương. Nhờ đó, Việt Nam đang được cộng đồng quốc tế đánh giá cao về tư duy cải cách. Xin thông tin thêm, với vai trò đại diện của Việt Nam (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tại Ủy ban Kinh tế APEC, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đang chủ trì, phối hợp với các đối tác xây dựng chương trình cải cách cơ cấu mới cho APEC giai đoạn 2026-2030. Trên nền tảng ấy, nếu tận dụng tốt cơ hội từ đà phục hồi của kinh tế thế giới và theo dõi, xử lý hiệu quả các khó khăn, bất định từ bên ngoài, Việt Nam có thể hoàn thành vượt mức mục tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2024. Bà khuyến nghị như thế nào để nền kinh tế nước ta tiếp tục có những bước phát triển hiệu quả trong thời gian tới? Việt Nam cần quyết liệt hơn trong cải cách thể chế kinh tế, qua đó giúp phát huy hiệu quả tối đa nội lực của nền kinh tế, để nền kinh tế vươn mình tận dụng những thời cơ phát triển mới. Cần nhấn mạnh, thể chế chính là một nguồn lực, thậm chí là “chìa khóa” quan trọng. Việt Nam cần cân nhắc một số định hướng chính sách nhằm “làm mới” động lực cải cách thể chế, tạo thuận lợi và tăng giá trị cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chẳng hạn như đẩy nhanh cải cách môi trường kinh doanh, đơn giản hóa các điều kiện kinh doanh và thủ tục hành chính; hoàn thiện thể chế liên kết vùng, nhằm tạo động lực cho liên kết giữa các địa phương và doanh nghiệp ở các địa phương theo tư duy chuỗi giá trị để “cùng đổi mới, cùng liên kết, cùng hợp tác, cùng thắng, cùng phát triển”. Song song với đó là rà soát, hoàn thiện khung chính sách để mở rộng không gian phát triển cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ban đêm, kinh tế sáng tạo… Cùng với đó cần tập trung tháo gỡ các khó khăn về tiếp cận các thị trường xuất khẩu, đẩy nhanh tạo thuận lợi thương mại, khuyến khích đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tận dụng tối đa hiệu quả các hiệp định thương mại tự do (FTA), tìm kiếm và khai thác hiệu quả các thị trường ngách, kể cả thông qua nền tảng số hóa và thử nghiệm phát triển khu thương mại tự do. Các cơ quan quản lý cần nhanh chóng hoàn thiện và triển khai hiệu quả khung chính sách cải thiện năng suất lao động, gắn với tăng kỹ năng và chuyển đổi kỹ năng cho người lao động để thích ứng với các mô hình kinh tế mới; đồng thời thúc đẩy chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp FDI sang khu vực doanh nghiệp trong nước. Bên cạnh đó, cần tiếp tục theo dõi, đánh giá, dự báo sát tình hình kinh tế thế giới và trong nước với các kịch bản đủ chi tiết, tính đến những rủi ro chiến tranh thương mại, gia tăng phòng vệ ở các thị trường xuất khẩu, xu hướng dịch chuyển đầu tư nước ngoài... để kiến nghị phương án, giải pháp phù hợp, qua đó củng cố ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn và tạo nền tảng quan trọng cho cải cách, hội nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Xin trân trọng cảm ơn bà! Hương Dịu (thực hiện)

Bỏ hạn mức tín dụng, cần tăng cường các công cụ kiểm soát rủi ro hiệu quả

Tại Công điện số 159/CĐ-TTg ngày 07/9/2025 về định hướng chỉ đạo, điều hành chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xây dựng có lộ trình và thí điểm việc gỡ bỏ biện pháp giao chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng để thực hiện từ năm 2026. Theo PGS.TS. Nguyễn Hữu Huân, giảng viên Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng Nhà nước áp dụng trong 14 năm nên cũng cần dỡ bỏ biện pháp hành chính này để phù hợp theo cơ chế thị trường song cần các giải pháp kiểm soát rủi ro hiệu quả. Ông đánh giá như thế nào về việc áp dụng hạn mức tín dụng từ năm 2011 đến nay? Bản chất của hạn mức tín dụng là một công cụ hành chính, giúp kiểm soát lạm phát tốt hơn. Công cụ này đóng vai trò như một van điều tiết dòng vốn chảy vào nền kinh tế, khi chảy quá mạnh thì có thể khóa ngay được. Công cụ hạn mức tín dụng được áp dụng từ năm 2011 sau giai đoạn tăng trưởng tín dụng nóng vào các năm trước đó. Việc áp dụng này nhằm hạn chế tình trạng tín dụng tăng trưởng quá mức, tránh rủi ro cho hệ thống ngân hàng khi các chuẩn mực về an toàn vốn chưa được phổ biến rộng rãi, đồng thời dần chuyển sang các biện pháp điều hành dựa trên các chỉ tiêu an toàn theo chuẩn mực quốc tế. Từ đó, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, ổn định vĩ mô. Tuy nhiên, công cụ này có hai mặt. Về mặt tích cực, hạn mức tín dụng tạo ra một cơ chế ngắt mạch nhanh và hiệu quả. Về mặt hạn chế, công cụ này mang tính hành chính và sự linh hoạt không cao. Ví dụ, hạn mức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước giao cho các ngân hàng là 15%, dù nhu cầu nền kinh tế thấp nhưng các ngân hàng vẫn đẩy tín dụng lên 15%, như vậy, dòng vốn sẽ chảy vào các kênh đầu cơ. Ngược lại, khi nhu cầu nền kinh tế cao hơn mức 15% nhưng tăng trưởng tín dụng lại bị siết chỉ ở mức này thì rõ ràng dẫn đến tình trạng nền kinh tế bị thiếu vốn. Do đó, tùy vào mục tiêu nới lỏng hay thắt chặt tiền tệ, nếu không dùng hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể dùng các công cụ thị trường khác để điều hành như lãi suất chính sách, nghiệp vụ thị trường mở thông qua việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán giấy tờ có giá với các thành viên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ví dụ, muốn nới lỏng và hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp thì khi không có hạn mức tín dụng, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể bơm tiền ra bằng nghiệp vụ thị trường mở. Đến nay, khi hệ thống ngân hàng đã phát triển tích cực, chủ trương bỏ hạn mức tín dụng gắn với việc Ngân hàng Nhà nước chủ động điều hành lãi suất theo tín hiệu thị trường là hoàn toàn xác đáng và hợp lý, thúc đẩy hệ thống tài chính Việt Nam theo thông lệ quốc tế. Theo ông, việc bỏ hạn mức tín dụng từ năm 2026 có hợp lý không? Việc bỏ hạn mức tín dụng nên chọn thời điểm phù hợp, có lộ trình để tránh rủi ro. Bài học từ giai đoạn 2007-2010 vẫn còn nguyên giá trị, lạm phát tăng vọt khi tín dụng chảy quá nhiều ra nền kinh tế với mức tăng trưởng lên đến 25%-28%/năm. Việc bỏ hạn mức tín dụng ở thời điểm này sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể cho vay chủ động hơn nhưng nếu không kiểm soát tốt sẽ dễ đẩy tăng trưởng tín dụng lên quá cao, ảnh hưởng đến lạm phát cũng như tạo ra những rủi ro cho ổn định vĩ mô. Xét ở khía cạnh khác, Ngân hàng Nhà nước vẫn có thể kiểm soát được dòng vốn chảy ra nền kinh tế bằng các công cụ thị trường như nêu trên. Chẳng hạn, khi lãi suất thực sự được vận hành theo cơ chế thị trường sẽ trở thành công cụ chủ đạo để điều tiết chi phí vốn, định hướng tín dụng vào các khu vực hiệu quả, giảm thiểu rủi ro phát sinh từ tín dụng dễ dãi. Việc xác định lộ trình phù hợp liên quan đến tính sẵn sàng của hệ thống và mức độ hiệu quả của các công cụ thị trường. Nếu hiệu quả rồi thì việc bỏ hạn mức tín dụng sẽ không ảnh hưởng quá nhiều. Nhưng, nếu bỏ hạn mức tín dụng trong khi các công cụ của chính sách tiền tệ theo thị trường chưa thực sự hiệu quả thì cần cân nhắc, đặc biệt trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến khá phức tạp và khó lường. Nhìn chung, khi bỏ hạn mức tín dụng thì các ngân hàng sẽ được chủ động hơn trong việc sử dụng nguồn vốn, bỏ được cơ chế xin - cho. Tùy vào năng lực mà mỗi ngân hàng có thể phát triển nguồn vốn theo khả năng và không bị ảnh hưởng bởi công cụ hành chính. Ngân hàng Nhà nước sẽ giám sát bằng hệ số quản trị rủi ro của các ngân hàng. Những ngân hàng nào có hệ số tốt thì được cho vay trên tỷ lệ vốn nhiều hơn và ngược lại. Bên cạnh việc bỏ hạn mức tín dụng, cần các giải pháp gì để kiểm soát rủi ro trong hệ thống và nền kinh tế, thưa ông? Việc bỏ hạn mức tín dụng là cần thiết song cũng phải rút kinh nghiệm từ bài học lịch sử giai đoạn trước dẫn đến lạm phát ở mức cao. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, cơ quan điều hành sẽ cần xây dựng các mô hình, hệ thống cảnh báo sớm, dự báo chính xác về lạm phát, về tăng trưởng kinh tế và các yếu tố vĩ mô khác. Chẳng hạn ở Mỹ có hệ thống cơ sở dữ liệu kinh tế và tài chính (FRED), tập hợp hàng trăm nghìn chuỗi dữ liệu kinh tế, tài chính, và xã hội từ nhiều nguồn như Cục Thống kê Lao động, Cục Phân tích Kinh tế, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới… nhằm hỗ trợ nghiên cứu và hoạch định chính sách. Trên cơ sở phân tích dữ liệu, cơ quan điều hành có thể đưa ra dự báo lạm phát trong tương lai để thắt chặt tiền tệ từ sớm, không đợi lạm phát xảy ra mới thắt chặt, lúc đó sẽ quá muộn do chính sách tiền tệ luôn có độ trễ. Khi có hệ thống dự báo chính xác thì việc điều hành chính sách tiền tệ sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Ngoài ra, để kiểm soát tốt rủi ro khi bỏ hạn mức tín dụng, hệ thống ngân hàng cần được bổ sung các biện pháp quản lý tiên tiến, kết hợp với việc ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), nâng chuẩn quản trị rủi ro, hoàn thiện các quy định an toàn và tiếp tục duy trì sự giám sát chủ động từ Ngân hàng Nhà nước. Một điều quan trọng là vai trò truyền thông chính sách, tránh đưa ra thông điệp cho rằng đây là tín hiệu nới lỏng tiền tệ, vô hình trung đẩy kỳ vọng lạm phát. Trân trọng cảm ơn ông! Lê Hường (thực hiện) (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)

Cần triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ tăng trưởng

Ông Sacha Dray, Chuyên gia Kinh tế của Ngân hàng Thế giới (WB), cho rằng tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã đạt kết quả tích cực trong nửa đầu năm nay song vẫn còn nhiều thách thức trong những tháng cuối năm, chủ yếu do sự bất định từ môi trường kinh tế bên ngoài. Do đó, cần các giải pháp hiệu quả để cải thiện hoạt động của doanh nghiệp và tiếp tục thúc đẩy giải ngân đầu tư công. Theo ông, kinh tế Việt Nam từ đầu năm đến nay có điểm gì nổi bật? Trong nửa đầu năm 2025, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam khả quan, đạt mức 7,5%, cao hơn so với khu vực, vượt xa các nền kinh tế lớn của ASEAN như Thái Lan, Philippines, Indonesia, Malaysia. Tăng trưởng GDP của Việt Nam tăng cao nhờ xuất khẩu tăng mạnh do các doanh nghiệp đang đẩy mạnh đơn hàng xuất đi trong bối cảnh bất định về chính sách thương mại toàn cầu. Tăng trưởng trên có được là nhờ xuất khẩu tăng lên đến 14,2% trong nửa đầu năm 2025 (so cùng kỳ), bao gồm xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ tăng mạnh, lên đến 28,3%, trước dự kiến thuế quan gia tăng trong thời gian tới. Nhập khẩu cũng tăng 16,0% trong nửa đầu năm 2025 (so cùng kỳ) để đáp ứng nhu cầu sản xuất để đảm bảo tiến độ xuất khẩu. Tăng trưởng đầu tư theo giá so sánh đạt 8,0% (so cùng kỳ), so với 6,7% trong nửa đầu năm 2024 (so cùng kỳ), nhờ đầu tư nước ngoài vẫn đứng vững và đầu tư công được đẩy mạnh. Tiêu dùng cuối cùng trong nửa đầu năm 2025 tăng 8,0%, so với 5,8% (cùng kỳ năm ngoái), nhờ du lịch khởi sắc. Nhìn trên góc độ cung, các lĩnh vực chế biến, chế tạo vẫn đóng góp lớn nhất cho tăng trưởng kinh tế (ở mức 30,7% cho tăng trưởng GDP trong nửa đầu năm 2025), tiếp theo là các dịch vụ liên quan đến thương mại (8,3%). Khu vực dịch vụ đóng góp gần một nửa tổng tăng trưởng kinh tế trong sáu tháng đầu năm 2025. Kết quả này cũng vượt trội so với thành tích mà Việt Nam đạt được trong 10 năm qua, nếu không tính giai đoạn phục hồi sau COVID-19. Nói cách khác, nền kinh tế đã có một màn thể hiện rất ấn tượng, phần lớn nhờ vào sự gia tăng xuất khẩu. Sự tăng trưởng xuất khẩu này đã thúc đẩy sản xuất hàng công nghiệp, đồng thời kéo theo sự phát triển của các dịch vụ thương mại như vận tải và logistics. Ông đánh giá như thế nào về công tác điều hành chính sách tài khóa và tiền tệ từ đầu năm đến nay? Từ đầu năm 2025 tới nay, chính sách tài khóa được thực hiện theo hướng mở rộng linh hoạt thông qua đầu tư công. Theo đó, đầu tư công mở rộng cả ở cấp trung ương và địa phương cho các dự án hạ tầng lớn về giao thông, năng lượng, đồng thời, tác động lớn với nhu cầu về nguyên vật liệu. Tuy nhiên, cần thêm thời gian để hiện thực hóa tác động này với tăng trưởng kinh tế và sẽ càng thể hiện rõ hơn trong trung hạn. Cùng với chính sách tài khóa mở rộng, chính sách tiền tệ được nới lỏng khi Ngân hàng Nhà nước dùng nhiều biện pháp can thiệp để kiềm chế áp lực tỷ giá và đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng. Chính sách tiền tệ nới lỏng trên đã hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, với lãi suất chính sách thực về gần bằng không. Đến ngày 31/8/2025, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam đạt 26,14 tỷ USD, tăng mạnh 27,3% so với cùng kỳ năm 2024. Đây có phải là kết quả khả quan không, thưa ông? Dù bối cảnh toàn cầu bất ổn, FDI vào Việt Nam vẫn bền bỉ, vốn giải ngân từ các doanh nghiệp nước ngoài đã tăng đáng kể. Các cam kết cho tương lai cũng duy trì tích cực. Kết quả này có được một phần nhờ cam kết mạnh mẽ của Chính phủ trong việc cải thiện môi trường kinh doanh. Việc đặt mục tiêu cắt giảm và đơn giản hóa ít nhất 30% điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính và chi phí tuân thủ trong năm 2025 là điều rất đáng hoan nghênh và sẽ góp phần củng cố niềm tin của nhà đầu tư. Một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế là đầu tư công, ông đánh giá như thế nào về tốc độ giải ngân đầu tư công với tăng trưởng kinh tế? Tính đến tháng 8/2025, mức giải ngân đạt khoảng 40% so với kế hoạch đề ra. Tốc độ giải ngân vốn đầu tư công đã cải thiện cả ở cấp trung ương và địa phương. Bên cạnh đó, điểm tích cực khác là cam kết chính trị mạnh mẽ trong việc tiếp tục thúc đẩy đầu tư công, thông qua việc thành lập các cơ quan, ủy ban mới để phối hợp nâng cao hiệu quả giải ngân. Tuy nhiên, nhiều khó khăn trong khâu triển khai đã tồn tại lâu dài và đến nay vẫn chưa được khắc phục triệt để. Một số biện pháp đã được triển khai sẽ cần thời gian để phát huy hiệu quả. Ví dụ, việc sáp nhập các tỉnh, thành hoặc điều chỉnh Luật Đầu tư công chắc chắn sẽ có tác động tích cực, nhưng trong ngắn hạn có thể gây ra gián đoạn, ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân. Một số biện pháp có thể hỗ trợ gồm: Trao thêm quyền linh hoạt trong việc điều chỉnh dự án trong suốt vòng đời đầu tư; tiếp tục tinh giản thủ tục, tăng cường giám sát, cũng như nâng cao hiệu quả ứng dụng thông tin trong theo dõi, quản lý dự án. Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng khá tham vọng trong năm nay, khoảng 8,3% – 8,5%. Vậy ông có khuyến nghị gì để Việt Nam đạt được mục tiêu này? Dù tăng trưởng kinh tế đạt kết quả tích cực trong những tháng vừa qua song trong những tháng còn lại của năm, những bất định từ môi trường toàn cầu, đặc biệt là các biện pháp thuế quan mới và sự thiếu ổn định trong chính sách thương mại sẽ tiếp tục hiện hữu và có thể tác động đến tăng trưởng. Một phần động lực tăng trưởng trong nửa đầu năm đến từ việc xuất khẩu tăng trước thời hạn, nhằm đón đầu các mức thuế cao hơn, nhưng xu hướng này sẽ chấm dứt trong nửa cuối năm. Vì vậy, chúng tôi dự báo tăng trưởng sẽ chậm lại trong nửa cuối năm, với mức tăng trưởng chung đạt 6,6% trong năm 2025 và 6,1% trong năm 2026. Đây vẫn là kết quả rất tích cực, đặc biệt trong bối cảnh môi trường bên ngoài bất lợi. Chính phủ Việt Nam có thể triển khai một số chính sách để duy trì đà tăng trưởng hiện tại và giảm thiểu rủi ro, cả từ bên ngoài lẫn trong nước.  Thứ nhất, trong lĩnh vực thương mại, tiếp tục thúc đẩy các nỗ lực nhằm giảm bớt bất định xoay quanh chính sách thương mại, chẳng hạn như vấn đề trung chuyển hay tận dụng các thị trường khác để đa dạng hóa vị thế của Việt Nam. Thứ hai, tiếp tục cắt giảm các rào cản phi thuế quan, đồng thời đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu, không chỉ tập trung vào hàng hóa công nghiệp mà còn mở rộng sang dịch vụ, dịch vụ số và các sản phẩm công nghệ cao có giá trị gia tăng lớn. Thứ ba, tăng cường vai trò của doanh nghiệp trong nước để kích thích tiêu dùng tư nhân, qua đó duy trì đà tăng trưởng trong ngắn hạn. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam đang triển khai các kế hoạch đẩy mạnh đầu tư công. Đây là hướng đi rất tích cực để hỗ trợ tăng trưởng, nhằm hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng cao của Chính phủ và tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế trung hạn. Trân trọng cảm ơn ông!  Xuân Anh (thực hiện)  (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)