TTCK Việt nam cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của nền kinh tế và chưa là kênh huy động vốn của DN
ThS. Hoàng Thị Việt Hà
I. Vài nét về thực trạng TTCK Việt nam
TTCK Việt nam đã đi vào hoạt động từ năm 2000, sau 8 năm hoạt động đã trở thành một kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển. Theo đánh giá ban đầu TTCK Việt nam bước đầu hoạt động tương đối an toàn, không gây ra những biến động lớn hoặc tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế xã hôi của đất nước. Tính đến tháng 11 năm 2008 cả nước có 312 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK). Hiện nay trên TTCK Việt nam, bên cạnh thị trường có tổ chức hoạt động của TTCK tự do còn ở phạm vi khá rộng với khoảng trên 800 loại cổ phiếu đang được giao dịch với giá trị ước tính gấp hơn 2 lần giá trị của thị trường có tổ chức. TTCK Việt nam cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của nền kinh tế và chưa là kênh huy động vốn của DN. Chức năng cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế của TTCK Việt nam vẫn chưa thể hiện rõ. Vốn dài hạn vẫn chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường tiền tệ. Đó là điểm bất cập không phù hợp với sự phát triển của TTTC.
Nhìn lại TTCK Việt nam sau 8 năm hoạt động, một số tồn tại đáng quan tâm, đó là:
a - Quy mô của TTCK Việt nam so với các nước trong khu vực vẫn còn nhỏ, tuy vốn hóa thị trường tăng nhanh có thời gian đạt 45% GDP. Trên TTCK chỉ có một số công ty lớn ở lĩnh vực kinh doanh tương đối ổn định, có mức tăng trưởng đều qua các năm, còn lại phần lớn các công ty niêm yết vẫn chưa phải là công ty lớn nhất trong nền kinh tế và chưa đại diện tiêu biểu cho sự đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP của Việt nam. Giá chứng khoán (chỉ số giá cổ phiếu VN- index) tăng giảm thất thường, TTCK trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự bền vững lành mạnh. Từ năm 2006 đến nay, TTCK Việt nam đã phát triển lên một cấp độ mới vừa trải qua nhiều thăng trầm đột ngột. Thị trường có lúc hừng hực sôi động, nở bung như “bong bóng” sau đó lại “xì hơi” tụt dốc. Tuy trong thời gian rất ngắn, TTCK Việt nam có những bước tiến vượt bậc và có không ít thành công, song cũng như chưa bao giờ như lúc này tâm lý bất ổn lại ngự trị trong các nhà đầu tư. Nếu nhìn lại sau 2 năm Việt nam gia nhập WTO chúng ta lại càng thấy rõ điều đó. Trong 2 năm 2007 và 2008, TTCK Việt nam diễn biến khá phức tạp thể hiện qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Tiếp theo đà suy giảm của TTCK trong năm 2007, chỉ số giá chứng khoán trong năm 2008 tiếp tục diễn biến phức tạp theo chiều hướng suy giảm.
b- Về hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều bất cập về tài chính. Mặc dù các công ty chứng khoán (CTCK) đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với các CTCK trực thuộc NHTM), nhưng nhìn chung vốn điều lệ vẫn còn thấp, đã ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty chỉ đóng vai trò đầu tư dẫn dắt thị trường hoặc rủi ro do mức vốn khả dụng thấp.
c- Các DN sau khi cổ phần hóa chưa tích cực đưa cổ phiếu vào đăng ký, lưu ký tập trung để niêm yết và giao dịch qua các SGDCK TP.HCM và TTGDCK Hà nội bởi nhiều lý do không chính đáng
d - Tuy Luật Chứng khoán được ra đời thay thế Nghị định 144/2003/NĐ-CP, ngày 28/11/2003 của Chính phủ về Chứng khoán và TTCK, song hệ thống pháp luật về TTCK còn bất cập và chưa được hoàn thiện. Sự đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm... còn chưa thật hoàn thiện. So với yêu cầu đòi hỏi của thực tế của sự phát triển thị trường tài chính và các định chế tài chính trong nền kinh tế thị trường đối với năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước còn hạn chế.
Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống kế toán Việt Nam trong những năm qua đã có sự đổi mới sâu sắc với Luật Kế toán đã được Quốc hội thông qua, Bộ Tài chính đã ban hành 26 chuẩn mực kế toán (VAS) và các thông tư hướng dẫn các chuẩn mực kế toán cũng như các văn bản sửa đổi, bổ sung. Mới đây, ngày 31/12/2007 Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư số 161/2007/TT-BTC về việc hướng dẫn thực hiện 16 chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001, Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002 và Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, chế độ kế toán DN hiện hành vẫn còn những tồn tại nhất định và điều này cũng đã và đang ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng hoạt động của các công ty niêm yết và công ty đại chúng ở Việt nam hiện nay.
Việt nam đã gia nhập WTO và đẩy mạnh hội nhập kinh tế, điều đó giúp cho việc đẩy mạnh các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam, đặc biệt là dòng vốn đầu tư gián tiếp thông qua TTCK, đáp ứng nhu cầu cho việc huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài khoảng 30% trong tổng số 140 tỷ USD cho giai đoạn phát triển kinh tế 2006-2010. Việc mở cửa TTCK Việt nam sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các tổ chức kinh doanh chứng khoán trong và ngoài nước để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho nhà đầu tư. Đồng thời từ đó sẽ trao đổi học tập kinh nghiệm và hợp tác trong việc phát triển TTCK Việt nam. Việt nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều tác động trực tiếp tới hoạt động của các công ty niêm yết cũng như cung cấp dịch vụ chứng khoán. Đây cũng sẽ là những đối tượng chịu tác động trực tiếp của các cam kết cụ thể của Việt nam trong lĩnh vực này, đây là những thách thức.
Với sự phát triển của nền kinh tế và thị trường vốn, quy mô TTCK và nhu cầu về dịch vụ chứng khoán trong thời gian tới sẽ tăng mạnh. Sự xuất hiện của các quỹ đầu tư và nhà ĐTNN có tác động mạnh tới phát triển thị trường, tuy nhiên cũng tiềm ẩn nguy cơ cao khi cơ sở hạ tầng chứng khoán phát triển không tương ứng với thị trường. Đồng thời, đây sẽ là thách thức lớn đối với việc giám sát rủi ro, duy trì sự phát triển bền vững của TTCK; đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu và thách thức đối với công tác kế toán tài chính của các công ty niêm yết trước yêu cầu phát triển ổn định và bền vững của TTCK Việt nam cũng như nền kinh tế Việt nam.
II. Một số vấn đề về công tác kế toán tài chính của các DN niêm yết
Vấn đề nổi lên trong hoạt động của TTCK đang cho thấy sự gia tăng những hạn chế, khiếm khuyết và cả các sai phạm liên quan đến các quy định về kế toán tài chính của các công ty niêm yết. Có thể nói rằng những khiếm khuyết, bất cập này chính là một trong những nguyên nhân chủ chốt và sâu xa ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK Việt nam. Để phát triển TTCK ổn định và bền vững cần thiết phải có biện pháp nhanh chóng để khắc phục những bất ổn liên quan đến công tác kế toán tài chính của các DN niêm yết hiện nay.
Qua thực tế nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi xin nêu ra những vấn đề đáng quan tâm liên quan đến công tác kế toán tài chính của các DN niêm yết hiện nay.
1. Vi phạm quy định về công bố thông tin theo Luật Kế toán
Luật Chứng khoán đã dành một chương riêng - Chương VIII để quy định về vấn đề công bố thông tin, kèm theo đó là Thông tư số 38/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 18/4/2007 hướng dẫn việc công bố thông tin trên TTCK. Về vấn đề công khai thông tin, Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội được xem là 2 tổ chức giao dịch “canh trợ” chứng khoán của Việt nam. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan điều hành cuộc chơi. Các cơ quan, tổ chức này đã có nhiều nỗ lực dựa vào các văn bản pháp luật để ban hành các qui định, qui chế nhằm bảo đảm các “chợ” chứng khoán của Việt nam hoặt động công bằng, lành mạnh và có hiệu quả. Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất của nhà đầu tư trong kinh doanh chứng khoán là vấn đề thông tin công khai. Thực tế cho thấy không có nhiều các DN thực hiện nghiêm Quy chế quản trị công ty theo Quyết định 12/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ Tài chính áp dụng cho các công ty niêm yết.
Kém công khai hoá là một trong số các vấn đề lớn của quản trị công ty hiện nay ở nước ta, ảnh hưởng rất lớn đến lòng tin của các nhà đầu tư. Chủ sở hữu, các cổ đông không nhận được một cách kịp thời, chính xác và đầy đủ các thông tin cơ bản về công ty. Các thông tin cơ bản đó bao gồm từ tổng số tài sản đến đánh giá chính xác về thực trạng tài chính hiện nay và thông tin về lưu chuyển tiền tệ trong quá khứ. Đó là những thông tin “cứng”, thông tin chuẩn mực cho phép các nhà đầu tư đánh giá trị giá công ty theo thực trạng, nghĩa là đánh giá trị giá công ty theo đúng những gì đã diễn ra trong quá khứ; hoặc cho phép nhà đầu tư ước tính được trị giá giải thể công ty theo cách các tài sản của công ty được bán một cách đơn lẻ.
Chủ sở hữu, các cổ đông nói chung cũng không nhận được thông tin “mềm”, hay thông tin dự tính tương lai. Thông tin loại này bao gồm những dự đoán của Hội đồng quản trị hay cán bộ quản lý khác về những biến đổi giá có thể xảy ra trên mỗi loại thị trường mà công ty đang hoạt động (thị trường sản phẩm, thị trường cung ứng nguyên liệu, thị trường vốn, thị trường lao động v.v.), và ước tính thay đổi cầu đối với sản phẩm của công ty. Thông tin loại này là không thể thiếu được để đánh giá trị giá công ty trong dòng vận động, vì nó cho phép nhà đầu tư dự tính được những thay đổi có thể xảy ra trong tương lai trong lưu chuyển tiền tệ.
Các thông tin trực tiếp liên quan đến lợi ích của những người quản lý cũng rất ít, thậm chí không được công khai hoá. Đó là các thông tin về tiền lương, thù lao, và lợi ích khác của người quản lý, thông tin về dòng tiền đến với cổ đông đa số.
Chế độ công bố thông tin của các DN trong nước không theo thông lệ quốc tế tốt nhất hoặc bị sai lệch vì bất kỳ lý do gì (như báo cáo sai sự thật, gian lận kiểm toán, do tham nhũng…) là một trong những nhân tố gây mất lòng tin lớn nhất ở các nhà đầu tư.
Hiện thời, thông tin về đối tượng mà nhà đầu tư gửi gắm tiền bạc và “tương lai” của mình đến từ ba nguồn: Bản cáo bạch (do tự công ty soạn ra); các báo cáo tài chính (cũng do tự công ty đưa ra); và các tin đồn đại. Cả ba nguồn thông tin này, nói chung, không có gì đảm bảo chắc chắn. Có một tâm lý rất đỗi bình thường là không ai dại gì tự khai báo về “những cái dở” của mình. Cho nên, chỉ đến khi nội bộ Công ty Bông Bạch Tuyết xung đột thì người ta mới biết Công ty này báo lãi, nhưng thực ra đang lỗ nặng. Hoặc có thể nêu một ví dụ khác về việc thông tin thiếu có cơ sở tin cậy: Một công ty S trên sàn Hà nội có giá cổ phiếu có lúc lớn hơn 500.000đ/CP (mệnh giá 10.000đ), có báo cáo kết quả kinh doanh quí I, quí II năm 2007 dòng lãi ghi bằng mực đỏ (trong kế toán, mực đỏ là ghi số âm, gọi là lỗ) trong bảng phân tích tài chính ghi ROE = 6%; còn ROA = 30%. Với một người làm kế toán tuân theo Luật Kế toán sẽ gọi BCTC của công ty này do một người không hiểu gì về kế toán lập. Rất tiếc là tổ chức quản lý “chợ” chứng khoán Hà nội không có ý kiến gì. Ở sàn chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh tình trạng không khá hơn. Một công ty niêm yết có vốn tự có sau năm 2006 là 11 tỷ đồng trong khi lợi nhuận ròng là 21 tỷ; quí I năm 2007 là 14 tỷ, trong khi họ chỉ trả cổ tức bằng tiền trong năm 2007 là 900 đồng trên một cổ phiếu còn lại chủ yếu trả bằng cổ phiếu thưởng và phát hành cổ phiếu. Tương tự như vật, nhiều CTCK dựa vào thông tin không đáng tin cậy để “làm mưa làm gió” làm giá đối với thị trường.
Các trường hợp vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK bị xử phạt trong năm 2008:
Hành vi vi phạm | Số trường hợp vi phạm bị xử lý | Tỷ lệ |
Vi phạm các quy định về công ty đại chúng, chào bán chứng khoán ra công chúng; vi phạm quy định về chế độ báo và công bố thông tin của công ty đại chúng, công ty niêm yết | 94 | 75,8% |
Vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán như giao dịch giả tạo; thao túng thị trường; thực hiện giao dịch chứng khoán mà không báo cáo của các cổ đông nội bộ công ty niêm yết | 19 | 15,3% |
Vi phạm các quy định về hoạt động kinh doanh chứng khoán của các CTCK; vi phạm quy định về chế độ báo và công bố thông tin của CTCK | 11 | 8,9% |
Tổng số | 124 | 100% |
Nguồn: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước
Một trong những giải pháp quan trọng bậc nhất để bảo vệ các nhà đầu tư là quy định kiểm toán độc lập đối với tất cả các công ty tham gia và chuẩn bị tham gia TTCK. Hiện nay, trong lĩnh vực kinh doanh, luật pháp của Việt nam mới chỉ buộc kiểm toán độc lập đối với DNNN, DN có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức tín dụng. Còn hàng chục vạn DN, trong đó có hàng vạn công ty cổ phần (CTCP) không phải chịu quy định này. Sự cần thiết của kiểm toán nhiều người đã biết và tán đồng, nhưng hiện thời việc kiểm toán các CTCP mới chỉ bắt buộc thực hiện khi công ty định chào bán ra công chúng.
2. Sử dụng những thủ thuật không chính đáng về kế toán
Qua thực tế hoạt động của TTCK Việt nam cho thấy, có nhiều lý do khiến các bản BCTC không minh bạch và một trong số đó là cổ phiếu bị đánh giá quá cao (overvaluation). Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên ban lãnh đạo công ty buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, ban lãnh đạo công ty cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm. Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật để làm đẹp báo cáo tài chính, và nó được coi là biện pháp đối phó hữu hiệu nhằm tạo ra ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu tư phát hiện DN thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin, hậu quả sẽ khó lường. Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập đến những thủ thuật hợp pháp, tuân thủ theo chuẩn mực kế toán mà một số DN đã và đang sử dụng và đây cũng là những biện pháp được nhiều DN nước ngoài sử dụng. Chúng tôi cho rằng, dù áp dụng biện pháp nào, về lâu dài đều không có lợi cho nhà đầu tư cũng như cho chính công ty. Xét trên phạm vi toàn xã hội, hậu quả còn nặng nề hơn, vì bê bối tài chính của một công ty không chỉ ảnh hưởng riêng đến công ty đó, mà còn làm xói mòn lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường. Để ngăn chặc những tác động tiêu cực của “Overvaluation”, các DN cần có ý thức cung cấp thông tin đầy đủ và minh bạch cho nhà đầu tư.
Trước hết, trong quá trình lập báo cáo tài chính, các công ty thường sử dụng rất nhiều các ước tính kế toán (Accrual earnings management) có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận trong kỳ của công ty. Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp như giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn kho, giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá xuống dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi phí không đủ điều kiện... Thủ thuật phù phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực chất không làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại. Hậu quả tất yếu là lợi nhuận các năm sau sẽ bị giảm. Để tiếp tục đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của thị trường, BCTC các năm tiếp theo cũng phải được phù phép. Tuy nhiên, càng về sau, mức lợi nhuận cần phù phép càng lớn khiến cho việc sử dụng các ước tính kế toán trở lên vô hiệu. Đến khi “giấy không thể gói được lửa”, khủng hoảng là điều khó tránh khỏi.
Ngoài ra, một số DN còn có thể phù phép lợi nhuận thông qua việc giàn xếp một số giao dịch thực nhằm tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, mặc dù các giao dịch đó có thể không có lợi cho công ty về lâu dài. Một biện pháp các DN thường sử dụng để tăng lợi nhuận khi thấy có nguy cơ không đạt kế hoạch đặt ra là giảm giá bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín dụng nhằm tăng lượng hàng bán ra trong những tháng cuối năm tài chính. Biện pháp nữa là công bố kế hoạch tăng giá bán đầu năm sau. Ví dụ, để tăng lợi nhuận Quí IV/2007, công ty T đã dùng “chiêu” công bố kế hoạch tăng giá bán từ Quí I/2008, lập tức doanh thu Quí IV/2007 sẽ tăng vọt. Hai biện pháp này cho phép công ty tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, nhưng sẽ bị giảm vào các năm sau, vì thực chất công ty đã chuyển lợi nhuận của năm sau sang năm hiện tại. Mặt khác, tăng giá bán năm sau còn làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường.
Thực hiện trì hoãn thanh lý tài sản không có nhu cầu sử dụng hoặc các khoản đầu tư không hiệu quả cũng có thể coi là một phương pháp mà một số DN sử dụng. Đối với các tài sản DN không có nhu cầu sử dụng hoặc các khoản đầu tư không mang lại hiệu quả, giải pháp tối ưu là thanh lý càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, thanh lý tài sản thường đem lại một khoản lỗ cho công ty trong năm hiện tại. Do đó, nếu lợi nhuận trong năm hiện tại có nguy cơ không đạt được mức kỳ vọng của thị trường, lãnh đạo công ty có thể không muốn thanh lý, mặc dù trì hoãn sẽ gây nhiều thiệt hại cho công ty như làm phát sinh chi phí bảo quản, cản trở không gian sản xuất. Với các tài sản và các khoản đầu tư không hiệu quả thì càng nắm giữ lâu, DN càng lỗ. Bên cạnh đó, ngoài việc trì hoãn thanh lý các khoản đầu tư không hiệu quả, công ty có thể bán các khoản đầu tư sinh lời nhằm tăng thêm lợi nhuận cho năm hiện tại. Động thái này được ví như “gặt lúa non”. Vì thế, áp dụng biện pháp trên có nghĩa là công ty tự nguyện bỏ qua tiềm năng sinh lời lớn từ các khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo.
3. Những hạn chế, bất cập về chính sách liên quan đến công tác kế toán:
Ngoài những vấn đề nêu trên, qua thực tế nghiên cứu, chúng tôi cũng nêu lên những vấn đề hạn chế, bất cập trong công tác kế toán liên quan đến các DN cổ phần và niêm yết ở Việt nam hiện nay đang cần có sự tháo gỡ và giải quyết kịp thời về cơ chế, chính sách của các cơ quan quản lý.
3.1. Về vấn đề kế toán cổ phiếu ngân quĩ tại các công ty cổ phần
Tùy theo tình hình phát triển, nhu cầu về vốn cũng như yêu cầu quản lý mà công ty cổ phần có thể mua lại các lọai cổ phiếu do mình đã phát hành. Các cổ phiếu đã phát hành được công ty cổ phần mua lại được gọi là cổ phiếu ngân quĩ. Tuy nhiên việc nhìn nhận về cổ phiếu ngân quĩ ở Việt nam cũng còn nhiều điều chưa rõ ràng. Các công ty cổ phần khác nhau có cách hạch toán khác nhau về việc thu hồi và tái phát hành cổ phiếu ngân quĩ. Tuy nhiên hiện đang tồn tại sự khác biệt giữa kế toán Việt nam và những qui định của chuẩn mực quốc tế về cổ phiếu ngân quĩ. Theo chuẩn mực quốc tế về kế toán , “tài sản” của công ty phải là nguồn lợi kinh tế sẽ mang lại lợi nhuận cho công ty và việc mua lại cổ phiếu ngân quĩ này là luồng đi ra của tài sản DN. Trong khi đó theo kế toán Việt Nam, khi công ty cổ phần mua lại những cổ phiếu do họ phát hành thì những cổ phiếu này giờ trở thành tài sản đầu tư của DN. Cụ thể là cổ phiếu quĩ sẽ được phản ảnh vào tài khoản 121 “đầu tư chứng khoán ngắn hạn”, chi tiết 1211 – cổ phiếu. Việc hạch toán như vậy cũng có nghĩa là công ty cổ phần chuyển đổi từ vốn bằng tiền sang thành một khoản đầu tư tài chính. Khoản “đầu tư chứng khoán 121” của Việt nam cũng được hiểu là những hoạt động đầu tư ra bên ngoài DN với mục đích kiếm lời. Trong khi đó cổ phiếu ngân quĩ mà công ty đang nắm giữ là những cổ phiếu hiện đang không còn lưu hành nữa, cổ tức của những cổ phiếu này cũng không phải trả, nghĩa là chẳng có khoản lợi nào được tạo ra khi công ty đang nắm giữ những cổ phiếu này. Vậy thì cổ phiếu ngân quĩ có nên xem là tài sản của DN hay không?
Ngoài ra cũng theo qui định của kế toán Việt nam, số dư tài khoản 121, phần giá trị cổ phiếu ngân quĩ được ghi bằng số âm dưới hình thức ghi trong ngoặc đơn (***) đặt dưới chỉ tiêu nguồn vốn kinh doanh của mục B – nguồn vốn chủ sở hữu, bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán. Thực tế cho thấy, việc phản ánh như vậy chưa thật rõ ràng, vì một khoản được xem là tài sản, nhưng khi trình bày trên bảng cân đối kế toán lại phản ánh bên nguồn vốn.
Tại một DN khác, hội đồng quản trị quyết định dùng các quĩ DN để mua lại các cổ phiếu làm cổ phiếu ngân quĩ như quĩ đầu tư phát triển, quĩ khấu hao... Cách hạch toán như vậy sẽ trực tiếp thay đổi vốn chủ sở hữu (vốn chủ sở hữu giảm). Ví dụ sau đây sẽ cho thấy việc hạch toán cổ phiếu ngân quỹ làm giảm vốn chủ sở hữu: công ty cổ phần B có bảng cân đối kế toán trước khi mua lại cổ phiếu làm cổ phiếu quĩ như sau: (trích)
Nguồn vốn chủ sở hữu: 10.140.000.000
Nguồn vốn kinh doanh: 10.000.000.000
(cổ phiếu thường 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đ/cổ phiếu)
Quĩ đầu tư phát triển: 20.000.000
Lợi nhuận chưa phân phối: 120.000.000
Giả sử công ty B dùng quĩ đầu tư phát triển mua lại 2.000 cổ phiếu để làm cổ phiếu ngân quĩ, giá mua đúng bằng mệnh giá 10.000 đ/ cổ phiếu. Vậy bảng cân đối kế toán sau khi mua lại sẽ là:
Nguồn vốn chủ sở hữu 10.120.000.000
Nguồn vốn kinh doanh 10.000.000.000
(cổ phiếu thường 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu
Lợi nhuận thực hiện 120.000.000
Vậy tổng vốn sở hữu có giảm đi, tuy nhiên giá trị phần vốn điều lệ không thay đổi, phần mô tả cổ phiếu trên nếu mô tả là 998.000 cổ phiếu thì cũng không chính xác (vì nếu lấy vốn kinh doanh là 10.000.000.000 chia cho số cổ phiếu thì mệnh giá bây giờ tăng thành 10.020 đ >10.000 đồng/cổ phiếu). Nếu vẫn tiếp tục mô tả 1.000.000 cổ phiếu thì cũng không phải vì thực sự chỉ có 998.000 cổ phiếu đang lưu hành còn 2.000 cổ phiếu ký quĩ hiện đang không còn lưu hành nữa. Ngoài ra chẳng có sự trình bày thích hợp nào khác trên bảng cân đối kế toán cho thấy được những chi phí bỏ ra để mua lại cổ phiếu ngân quĩ.
Sau khi giữ cổ phiếu ngân quĩ một thời gian, khi có nhu cầu, công ty cổ phần có thể tái phát hành lại cổ phiếu ngân quĩ. Theo kế toán Việt nam khi đó phần chênh lệch giữa giá bán cổ phiếu ngân quĩ ra thị trường và giá mà công ty cổ phần đã mua lại những cổ phiếu này trước kia sẽ được xem như doanh thu hay chi phí hoạt động tài chính, hoặc có một số DN hạch toán trực tiếp làm tăng hay giảm lợi nhuận chưa phân phối. Như đã đề cập ở phần trên, theo chuẩn mực kế toán quốc tế qui định (SIC 16) là “không có khoản thu nhập hay mất mát nào ghi nhận trên báo cáo thu nhập liên quan đến việc bán, phát hành hay chấm dứt sử dụng của cổ phiếu ngân quĩ”. Nhiều ý kiến cho rằng việc phản ánh của kế toán Việt nam liên quan đến việc tái phát hành của cổ phiếu ngân quĩ là chưa chính xác.
3.2. Về vấn đề liên quan đến lập báo cáo tài chính hợp nhất.
Về thời điểm lập báo cáo tài chính hợp nhất (BCTCHN) lần đầu tiên, VAS 25 – BCTCHN và các khoản đầu tư vào công ty con không quy định, còn VAS 11 – Hợp nhất kinh doanh thì quy định thời điểm lập BCTCHN “đó là thời điểm sớm nhất theo quy định hiện hành”. Thông tư 161/2007/TT-BTC cũng không quy định. Tuy nhiên, khi hướng dẫn sự điều chỉnh trong quá trình hợp nhất thì lại luôn xuất hiện cụm từ “…điều chỉnh từ sau ngày đầu tư đến cuối kỳ trước”. Với cụm từ này đối tượng quan tâm sẽ chỉ hiểu được đó là ảnh hưởng của những thay đổi trong khoản thời gian từ sau ngày đầu tư đến đầu năm nay chứ không biết được ảnh hưởng tại ngay thời điểm hợp nhất hay đầu tư. Điều này sẽ không chính xác vì không thể tính toán được những khoản chênh lệch phát sinh tại thời điểm đó (giá phí hợp nhất, lợi thế thương mại…). Bên cạnh đó, cũng không biết được ảnh hưởng của từng thời điểm đầu tư vì tại ngày đầu tư tỷ lệ vốn đầu tư vào công ty con có thể là 60% nhưng thời gian sau – chưa kết thúc năm tài chính, vẫn trong niên độ kế toán đó – tỷ lệ đầu tư của nhà đầu tư tiếp tục bổ sung thêm là 70% điều này sẽ không xử lý được nếu cứ áp dụng theo quy định hiện hành. Thực tế hiện nay theo quy định của Chuẩn mực kế toán quốc tế số 27 (IFRS 27), BCTCHN và BCTC riêng có chia thời điểm lập BCTCHN thành là: thời điểm hợp nhất, thời điểm cuối năm của năm hợp nhất, thời điểm năm hợp nhất liền kề và thời điểm những năm tiếp theo.
Theo quy định hiện hành về BCTCHN, đối tượng quan tâm sẽ thấy hầu như đây là những quy định để lập Bảng cân đối kế toán hợp nhất mà không có các BCTC khác (vì theo quy định hệ thống BCTCHN phải gồm 04 mẫu biểu báo cáo), mặc dù Báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất tuy đề cập tới nhưng chỉ có chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế thu nhập DN rất khó thực hiện. Như vậy, với quy định này thì cuối kỳ lập BCTCHN sẽ thực hiện rất khó khăn. Đối với các chuẩn mực kế toán quốc tế thì có quy định đầy đủ đến Bảng cân đối kế toán hợp nhất, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất.
Theo Thông tư số 23/2005/TT-BTC ngày 30/3/2005 của Bộ Tài chính, phần hướng dẫn kế toán Chuẩn mực “BCTCHN và kế toán khoản đầu tư vào công ty con” tại điểm hướng dẫn bổ sung Mục C “Lợi ích của cổ đông thiểu số” trong Bảng cân đối kế toán hợp nhất có mã số là 500. Nhưng phần “Tổng cộng nguồn vốn” vẫn là mã số 440 là chưa hợp lý nhưng vấn đề này vẫn chưa được điều chỉnh trong thông tư 161/2007/TT-BTC; đồng thời cũng chưa quy định về việc xác định Lợi ích của cổ đông thiểu số một cách cụ thể.
Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, so với trước đây thì việc lập hệ thống BCTC hiện nay phức tạp hơn nhiều, Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ có nhiều chỉ tiêu được tổng hợp, rút gọn hơn trước đây và những chỉ tiêu này sẽ được trình bày rõ hơn trong phần thuyết minh, điều này dẫn đến vấn đề là để lập được BCTC này thì cần thiết phải Lập Bản thuyết minh BCTC trước vì như vậy mới có cơ sở số liệu để ghi vào các chỉ tiêu được tham chiếu. Theo quy trình lập hệ thống BCTC là lại lập Bản thuyết minh BCTC trước là hoàn toàn không hợp lý. Bên cạnh đó, trong quá trình hạch toán kế toán, chế độ quy định có 3 hoạt động là hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động khác. Nhưng trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lại chia ra 2 hoạt động kinh doanh (bao gồm hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính) và hoạt động khác điều này làm cho sự tư duy của người lập chưa được logic. Hơn thế nữa, trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ lại chia ra luồng tiền của 3 hoạt động là hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động khác, với cách quy định này thì cơ bản thống nhất với quy định về hạch toán nhưng vẫn không thống nhất với việc trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh./.
Tài liệu tham khảo:
1. Kế toán quản trị trong DN, Tạp chí Kế toán số tháng 9-2007;
2.Ý kiến trao đổi vể hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị trong DN, Tạp chí Kinh tế phát triển số tháng 12-2008;
3. Kế toán quản trị trong kiểm soát chất lượng toàn diện - Vấn đề cần quan tâm của các DN Việt Nam, http://www.vaa.vn, 17-10-2008;
4. PGS TS. Phạm Văn Dược (2002), “Vận dụng kế toán quản trị vào các DN Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại Học Kinh Tế Tp.HCM;
5. Nguyễn Sơn, “Tăng cường quản lý giám sát nhằm phát triển ổn định, bền vững TTCK Việt nam”, Hội thảo khoa học quốc tế “Cơ chế và biện pháp giám sát TTTC Việt Nam và Trung Quốc”, Hà Nội, 11/2008
6. Nguyễn Đình Tài, Sự hình thành và phát triển TTTC của nền kinh tế chuyển đổi Việt nam, NXB “Chính trị Quốc gia”, 1999.
7. Robert S.Kaplan, Anthony A.Atkinson, “Advanced Management Accounting” (Second Edition), Prentice Hall International Inc, Chapter 10: “Measuring Quality” pages: 372- 411;
8. Anthony A.Atkinson, Rajiv D. Banker, Robert S.Kaplan,, S. Mark Young, “Management Accounting” (Third Edition), Prentice Hall International Inc, Chapter 10: “Motivating Behavior in Management Accounting anh Control Systems” pages: 394- 424