Thứ ba, 16/9/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ ba, 16/9/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TÀI CHÍNH TẠI CÁC CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN TTCK VIỆT NAM

TTCK Việt nam cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của nền kinh tế và chưa là kênh huy động vốn của DN

 

ThS. Hoàng Thị Việt Hà

 

I. Vài nét về thực trạng TTCK Việt nam

TTCK Việt nam đã đi vào hoạt động từ năm 2000, sau  8 năm hoạt động đã trở thành một kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển. Theo đánh giá ban đầu TTCK Việt nam bước đầu hoạt động tương đối an toàn, không gây ra những biến động lớn hoặc tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế xã hôi của đất nước. Tính đến tháng 11 năm 2008 cả nước có 312 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK). Hiện nay trên TTCK Việt nam, bên cạnh thị trường có tổ chức hoạt động của TTCK tự do còn ở phạm vi khá rộng với khoảng trên 800 loại cổ phiếu đang được giao dịch với giá trị ước tính gấp hơn 2 lần giá  trị của thị trường có tổ chức.  TTCK Việt nam cho đến nay vẫn chưa là “hàn thử biểu” của nền kinh tế và chưa là kênh huy động vốn của DN. Chức năng cung ứng vốn dài hạn cho nền kinh tế của TTCK Việt nam vẫn chưa thể hiện rõ. Vốn dài hạn vẫn chủ yếu được thực hiện thông qua thị trường tiền tệ. Đó là điểm bất cập không phù hợp với sự phát triển của TTTC.

Nhìn lại TTCK Việt nam sau 8 năm hoạt động, một số tồn tại đáng quan tâm, đó là:

a - Quy mô của TTCK Việt nam so với các nước trong khu vực vẫn còn nhỏ, tuy vốn hóa thị trường tăng nhanh có thời gian đạt 45% GDP. Trên TTCK chỉ có  một số công ty lớn ở lĩnh vực kinh doanh tương đối ổn định, có mức tăng trưởng đều qua các năm, còn lại phần lớn các công ty niêm yết vẫn chưa phải là công ty lớn nhất trong nền kinh tế và chưa đại diện tiêu biểu cho sự đóng góp tỷ trọng lớn vào GDP của Việt nam. Giá chứng khoán (chỉ số giá cổ phiếu VN- index) tăng giảm thất thường, TTCK trong thời gian qua vẫn chưa đảm bảo sự bền vững lành mạnh. Từ năm 2006 đến nay, TTCK Việt nam đã phát triển lên một cấp độ mới vừa trải  qua nhiều thăng trầm đột ngột. Thị trường có lúc  hừng hực sôi động, nở bung như “bong bóng” sau đó lại “xì hơi” tụt dốc. Tuy trong thời gian rất ngắn, TTCK Việt nam có những bước tiến vượt bậc và có không ít thành công, song cũng như chưa bao giờ như lúc này tâm lý bất ổn lại ngự trị trong các nhà đầu tư. Nếu nhìn lại sau 2 năm Việt nam gia nhập WTO chúng ta lại càng thấy rõ điều đó. Trong 2 năm 2007 và 2008, TTCK Việt nam diễn biến khá phức tạp thể hiện qua các giai đoạn phát triển khác nhau. Tiếp theo đà suy giảm của TTCK trong năm 2007, chỉ số giá chứng khoán trong năm 2008 tiếp tục diễn biến phức tạp theo chiều hướng suy giảm.

b- Về hoạt động của các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều bất cập về tài chính. Mặc dù các công ty chứng khoán (CTCK) đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với các CTCK trực thuộc NHTM), nhưng nhìn chung vốn điều lệ vẫn còn thấp, đã ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty chỉ đóng vai trò đầu tư dẫn dắt thị trường hoặc rủi ro do mức vốn khả dụng thấp.

c- Các DN sau khi cổ phần hóa chưa tích cực đưa cổ phiếu vào đăng ký, lưu ký tập trung để niêm yết và giao dịch qua các SGDCK TP.HCM và TTGDCK Hà nội bởi nhiều lý do không chính đáng

d - Tuy Luật Chứng khoán được ra đời thay thế Nghị định 144/2003/NĐ-CP, ngày 28/11/2003 của Chính phủ về Chứng khoán và TTCK, song hệ thống pháp luật về TTCK còn bất cập và chưa được hoàn thiện. Sự đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật các tổ chức tín dụng, Luật kinh doanh bảo hiểm... còn chưa thật hoàn thiện. So với yêu cầu đòi hỏi của thực tế của sự phát triển thị trường tài chính và các định chế tài chính trong nền kinh tế thị trường đối với năng lực quản lý và sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước còn hạn chế.

Thực hiện tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống kế toán Việt Nam trong những năm qua đã có sự đổi mới sâu sắc với Luật Kế toán đã được Quốc hội thông qua, Bộ Tài chính đã ban hành 26 chuẩn mực kế toán (VAS) và các thông tư hướng dẫn các chuẩn mực kế toán cũng như các văn bản sửa đổi, bổ sung. Mới đây, ngày 31/12/2007 Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư số 161/2007/TT-BTC về việc hướng dẫn thực hiện 16 chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31/12/2001, Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002 và Quyết định số 234/2003/QĐ-BTC ngày 30/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được, chế độ kế toán DN hiện hành vẫn còn những tồn tại nhất định và điều này cũng đã và đang ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng hoạt động của các công ty niêm yết và công ty đại chúng ở Việt nam hiện nay.

Việt nam đã gia nhập WTO và đẩy mạnh hội nhập kinh tế, điều đó giúp cho việc đẩy mạnh các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt nam, đặc biệt là dòng vốn đầu tư gián tiếp thông qua TTCK, đáp ứng nhu cầu cho việc huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài khoảng 30% trong tổng số 140 tỷ USD cho giai đoạn phát triển kinh tế 2006-2010. Việc mở cửa TTCK Việt nam sẽ tạo ra sự cạnh tranh giữa các tổ chức kinh doanh chứng khoán trong và ngoài nước để cung cấp dịch vụ với chất lượng cao cho nhà đầu tư. Đồng thời từ đó sẽ trao đổi học tập kinh nghiệm và hợp tác trong việc phát triển TTCK Việt nam. Việt nam gia nhập WTO sẽ mang lại nhiều tác động trực tiếp tới hoạt động của các công ty niêm yết cũng như cung cấp dịch vụ chứng khoán. Đây cũng sẽ là những đối tượng chịu tác động trực tiếp của các cam kết cụ thể của Việt nam trong lĩnh vực này, đây là những thách thức.

Với sự phát triển của nền kinh tế và thị trường vốn, quy mô TTCK và nhu cầu về dịch vụ chứng khoán trong thời gian tới sẽ tăng mạnh. Sự xuất hiện của các quỹ  đầu tư và nhà ĐTNN có tác động mạnh tới phát triển thị trường, tuy nhiên cũng tiềm ẩn nguy cơ cao khi cơ sở hạ tầng chứng khoán phát triển không tương ứng với thị trường. Đồng thời, đây sẽ là thách thức lớn đối với việc giám sát rủi ro, duy trì sự phát triển bền vững của TTCK; đã và đang đặt ra nhiều yêu cầu và thách thức đối với công tác kế toán tài chính của các công ty niêm yết trước yêu cầu phát triển ổn định và bền vững của TTCK Việt nam cũng như nền kinh tế Việt nam.

 

II. Một số vấn đề về công tác kế toán tài chính của các DN niêm yết

            Vấn đề nổi lên trong hoạt động của TTCK đang cho thấy sự gia tăng những hạn chế, khiếm khuyết và cả các sai phạm liên quan đến các quy định về  kế toán tài chính của các công ty niêm yết. Có thể nói rằng những khiếm khuyết, bất cập  này chính là một trong những nguyên nhân chủ chốt và sâu xa ảnh hưởng đến sự phát triển của TTCK Việt nam. Để phát triển TTCK ổn định và bền vững cần thiết phải có biện pháp nhanh chóng để khắc phục những bất ổn liên quan đến công tác kế toán tài chính của các DN  niêm yết hiện nay.

Qua thực tế nghiên cứu và tìm hiểu, chúng tôi xin nêu ra những  vấn đề đáng quan tâm liên quan đến công tác kế toán tài chính của các DN  niêm yết hiện nay.

1. Vi phạm  quy định về công bố thông tin theo Luật Kế toán

Luật Chứng khoán đã dành một chương riêng - Chương VIII để quy định về vấn đề công bố thông tin, kèm theo đó là Thông tư số 38/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính ban hành ngày 18/4/2007 hướng dẫn việc công bố thông tin trên TTCK.  Về vấn đề công khai thông tin, Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội được xem là 2 tổ chức giao dịch “canh trợ” chứng khoán của Việt nam. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan điều hành cuộc chơi. Các cơ quan, tổ chức này đã có nhiều nỗ lực dựa vào các văn bản pháp luật để ban hành các qui định, qui chế nhằm bảo đảm các “chợ” chứng khoán  của Việt nam hoặt động công bằng, lành mạnh và có hiệu quả. Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất của nhà đầu tư trong kinh doanh chứng khoán là vấn đề thông tin công khai. Thực tế cho thấy không có nhiều các DN thực hiện nghiêm Quy chế quản trị công ty theo Quyết định 12/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 của Bộ Tài chính áp dụng cho các công ty niêm yết.

Kém công khai hoá là một trong số các vấn đề lớn của quản trị công ty hiện nay ở nước ta, ảnh hưởng rất lớn đến lòng tin của các nhà đầu tư. Chủ sở hữu, các cổ đông không nhận được một cách kịp thời, chính xác và đầy đủ các thông tin cơ bản về công ty. Các thông tin cơ bản đó bao gồm từ tổng số tài sản đến đánh giá chính xác về thực trạng tài chính hiện nay và thông tin về lưu chuyển tiền tệ trong quá khứ. Đó là những thông tin “cứng”, thông tin chuẩn mực cho phép các nhà đầu tư đánh giá trị giá công ty theo thực trạng, nghĩa là đánh giá trị giá công ty theo đúng những gì đã diễn ra trong quá khứ; hoặc cho phép nhà đầu tư ước tính được trị giá giải thể công ty theo cách các tài sản của công ty được bán một cách đơn lẻ.

Chủ sở hữu, các cổ đông nói chung cũng không nhận được thông tin “mềm”, hay thông tin dự tính tương lai. Thông tin loại này bao gồm những dự đoán của Hội đồng quản trị hay cán bộ quản lý khác về những biến đổi giá có thể xảy ra trên mỗi loại thị trường mà công ty đang hoạt động (thị trường sản phẩm, thị trường cung ứng nguyên liệu, thị trường vốn, thị trường lao động v.v.), và ước tính thay đổi cầu đối với sản phẩm của công ty. Thông tin loại này là không thể thiếu được để đánh giá trị giá công ty trong dòng vận động, vì nó cho phép nhà đầu tư dự tính được những thay đổi có thể xảy ra trong tương lai trong lưu chuyển tiền tệ.

Các thông tin trực tiếp liên quan đến lợi ích của những người quản lý cũng rất ít, thậm chí không được công khai hoá. Đó là các thông tin về tiền lương, thù lao, và lợi ích khác của người quản lý, thông tin về dòng tiền đến với cổ đông đa số.

Chế độ công bố thông tin của các DN trong nước không theo thông lệ quốc tế tốt nhất hoặc bị sai lệch vì bất kỳ lý do gì (như báo cáo sai sự thật, gian lận kiểm toán, do tham nhũng…) là một trong những nhân tố gây mất lòng tin lớn nhất ở các nhà đầu tư.

Hiện thời, thông tin về đối tượng mà nhà đầu tư gửi gắm tiền bạc và “tương lai” của mình đến từ ba nguồn: Bản cáo bạch (do tự công ty soạn ra); các báo cáo tài chính (cũng do tự công ty đưa ra); và các tin đồn đại. Cả ba nguồn thông tin này, nói chung, không có gì đảm bảo chắc chắn. Có một tâm lý rất đỗi bình thường là không ai dại gì tự khai báo về “những cái dở” của mình. Cho nên, chỉ đến khi nội bộ Công ty Bông Bạch Tuyết xung đột thì người ta mới biết Công ty này báo lãi, nhưng thực ra đang lỗ nặng. Hoặc có thể nêu một ví dụ khác về  việc thông tin  thiếu có cơ sở tin cậy: Một công ty S trên sàn Hà nội có giá cổ phiếu có lúc lớn hơn 500.000đ/CP (mệnh giá 10.000đ), có báo cáo kết quả kinh doanh quí I, quí II năm 2007 dòng lãi ghi bằng mực đỏ (trong kế toán, mực đỏ là ghi số âm, gọi là lỗ) trong bảng phân tích tài chính ghi ROE = 6%; còn ROA = 30%. Với một người làm kế toán tuân theo Luật Kế toán sẽ gọi BCTC  của công ty này do một người không hiểu gì về kế toán lập. Rất tiếc là tổ chức quản lý “chợ” chứng khoán Hà nội không có ý kiến gì. Ở sàn chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh tình trạng không khá hơn. Một công ty niêm yết có vốn tự có sau năm 2006 là 11 tỷ đồng trong khi lợi nhuận ròng là 21 tỷ; quí I năm 2007 là 14 tỷ, trong khi họ chỉ trả cổ tức bằng tiền trong năm 2007 là 900 đồng trên một cổ phiếu còn lại chủ yếu trả bằng cổ phiếu thưởng và phát hành cổ phiếu. Tương tự như vật, nhiều CTCK dựa vào thông tin không đáng tin cậy để “làm mưa làm gió” làm giá đối với thị trường.

Các trường hợp vi phạm pháp luật về chứng khoán và TTCK bị xử phạt trong năm 2008:

Hành vi vi phạm

Số trường hợp vi phạm bị xử lý

Tỷ lệ

Vi phạm các quy định về công ty đại chúng, chào bán chứng khoán ra công chúng; vi phạm quy định về chế độ báo và công bố thông tin của công ty đại chúng, công ty niêm yết

 

94

 

75,8%

Vi phạm quy định về giao dịch chứng khoán như giao dịch giả tạo; thao túng thị trường; thực hiện giao dịch chứng khoán mà không báo cáo của các cổ đông nội bộ công ty niêm yết

 

19

 

15,3%

Vi phạm các quy định về hoạt động kinh doanh chứng khoán của các CTCK; vi phạm quy định về chế độ báo và công bố thông tin của CTCK

 

11

 

8,9%

Tổng số

124

100%

 

Nguồn: Uỷ ban chứng khoán Nhà nước

Một trong những giải pháp quan trọng bậc nhất để bảo vệ các nhà đầu tư là quy định kiểm toán độc lập đối với tất cả các công ty tham gia và chuẩn bị tham gia TTCK. Hiện nay, trong lĩnh vực kinh doanh, luật pháp của Việt nam mới chỉ buộc kiểm toán độc lập đối với DNNN, DN có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức tín dụng. Còn hàng chục vạn DN, trong đó có hàng vạn công ty cổ phần (CTCP) không phải chịu quy định này. Sự cần thiết của kiểm toán nhiều người đã biết và tán đồng, nhưng hiện thời việc kiểm toán các CTCP mới chỉ bắt buộc thực hiện khi công ty định chào bán ra công chúng.

 

2. Sử dụng những thủ thuật  không chính đáng về kế toán

Qua thực tế hoạt động của TTCK Việt nam cho thấy, có nhiều lý do khiến các bản BCTC không minh bạch và một trong số đó là cổ phiếu bị đánh giá quá cao (overvaluation). Giá cổ phiếu cao đồng nghĩa với kỳ vọng cao của nhà đầu tư về khả năng sinh lợi của công ty, từ đó gây sức ép lên ban lãnh đạo công ty buộc phải tạo ra mức lợi nhuận tương ứng nếu không muốn nhận phản ứng tiêu cực từ thị trường. Mặt khác, ban lãnh đạo công ty  cũng nắm giữ một số lượng lớn cổ phiếu, nên bản thân họ không muốn giá cổ phiếu bị sụt giảm. Những lý do này khiến các nhà quản lý khó có lựa chọn nào khác hơn là tìm những thủ thuật để làm đẹp báo cáo tài chính, và nó được coi là biện pháp đối phó hữu hiệu nhằm tạo ra ảo tưởng công ty đang làm ăn phát đạt. Vì thế, một khi nhà đầu tư phát hiện DN thiếu minh bạch trong cung cấp thông tin, hậu quả sẽ khó lường. Trong bài viết này, chúng tôi xin đề cập đến những thủ thuật hợp pháp, tuân thủ theo chuẩn mực kế toán mà một số DN đã và đang sử dụng và đây cũng là những biện pháp được nhiều DN nước ngoài sử dụng. Chúng tôi cho rằng, dù áp dụng biện pháp nào, về lâu dài đều không có lợi cho nhà đầu tư cũng như cho chính công ty. Xét trên phạm vi toàn xã hội, hậu quả còn nặng nề hơn, vì bê bối tài chính của một công ty không chỉ ảnh hưởng riêng đến công ty đó, mà còn làm xói mòn lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường. Để ngăn chặc những tác động tiêu cực của “Overvaluation”, các DN cần có ý thức cung cấp thông tin đầy đủ và minh bạch cho nhà đầu tư.

Trước hết, trong quá trình lập báo cáo tài chính, các công ty thường sử dụng rất nhiều các ước tính kế toán (Accrual earnings management) có ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận trong kỳ của công ty. Một số thủ thuật làm tăng mức lợi nhuận thường gặp như giảm mức khấu hao, giảm mức dự phòng, giảm giá hàng tồn kho, giảm dự phòng nơ khó đói, không ghi nhận chi phí khi tài sản bị giảm giá xuống dưới giá trị thuần, vốn hoá các khoản chi phí không đủ điều kiện... Thủ thuật phù phép lợi nhuận dựa trên các ước tính kế toán thực chất không làm tăng lợi nhuận mà chỉ đơn thuần chuyển lợi nhuận của kỳ sau sang kỳ hiện tại. Hậu quả tất yếu là lợi nhuận các năm sau sẽ bị giảm. Để tiếp tục đáp ứng kỳ vọng ngày càng cao của thị trường, BCTC các năm tiếp theo cũng phải được phù phép. Tuy nhiên, càng về sau, mức lợi nhuận cần phù phép càng lớn khiến cho việc sử dụng các ước tính kế toán trở lên vô hiệu. Đến khi “giấy không thể gói được lửa”, khủng hoảng là điều khó tránh khỏi.

Ngoài ra, một số DN còn có thể phù phép lợi nhuận thông qua việc giàn xếp một số giao dịch thực nhằm tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, mặc dù các giao dịch đó có thể không có lợi cho công ty về lâu dài. Một biện pháp các DN thường sử dụng để tăng lợi nhuận khi thấy có nguy cơ không đạt kế hoạch đặt ra là giảm giá bán hoặc nới lỏng các điều kiện tín dụng nhằm tăng lượng hàng bán ra trong những tháng cuối năm tài chính. Biện pháp nữa là công bố kế hoạch tăng giá bán đầu năm sau. Ví dụ, để tăng lợi nhuận Quí IV/2007, công ty T đã dùng “chiêu” công bố kế hoạch tăng giá bán từ Quí I/2008, lập tức doanh thu Quí IV/2007 sẽ tăng vọt. Hai biện pháp này cho phép công ty tăng lợi nhuận trong năm hiện tại, nhưng sẽ bị giảm vào các năm sau, vì thực chất công ty đã chuyển lợi nhuận của năm sau sang năm hiện tại. Mặt khác, tăng giá bán năm sau còn làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường.

Thực hiện trì hoãn thanh lý tài sản không có nhu cầu sử dụng hoặc các khoản đầu tư không hiệu quả cũng có thể coi là một phương pháp mà một số DN sử dụng. Đối với các tài sản DN không có nhu cầu sử dụng hoặc các khoản đầu tư không mang lại hiệu quả, giải pháp tối ưu là thanh lý càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, thanh lý tài sản thường đem lại một khoản lỗ cho công ty trong năm hiện tại. Do đó, nếu lợi nhuận trong năm hiện tại có nguy cơ không đạt được mức kỳ vọng của thị trường, lãnh đạo công ty có thể không muốn thanh lý, mặc dù trì hoãn sẽ gây nhiều thiệt hại cho công ty như làm phát sinh chi phí bảo quản, cản trở không gian sản xuất. Với các tài sản và các khoản đầu tư không hiệu quả thì càng nắm giữ lâu, DN càng lỗ. Bên cạnh đó, ngoài việc trì hoãn thanh lý các khoản đầu tư không hiệu quả, công ty có thể bán các khoản đầu tư sinh lời nhằm tăng thêm lợi nhuận cho năm hiện tại. Động thái này được ví như “gặt lúa non”. Vì thế, áp dụng biện pháp trên có nghĩa là công ty tự nguyện bỏ qua tiềm năng sinh lời lớn từ các khoản đầu tư này trong những năm tiếp theo.

 

3. Những hạn chế, bất cập về chính sách liên quan đến công tác kế toán:

            Ngoài những vấn đề nêu trên, qua thực tế nghiên cứu, chúng tôi cũng nêu lên những vấn đề hạn chế, bất cập trong công tác kế toán liên quan đến các DN cổ phần và niêm yết ở Việt nam hiện nay đang cần có sự tháo gỡ và giải quyết kịp thời về cơ chế, chính sách của các cơ quan quản lý.

            3.1. Về vấn đề kế toán cổ phiếu ngân quĩ tại các công ty cổ phần

            Tùy theo tình hình phát triển, nhu cầu về vốn cũng như yêu cầu quản lý mà công ty cổ phần có thể mua lại các lọai cổ phiếu do mình đã phát hành. Các cổ phiếu đã phát hành được công ty cổ phần mua lại được gọi là cổ phiếu ngân quĩ. Tuy nhiên việc nhìn nhận về cổ phiếu ngân quĩ ở Việt nam cũng còn nhiều điều chưa rõ ràng.  Các công ty cổ phần khác nhau có cách hạch toán khác nhau về việc thu hồi và tái phát hành cổ phiếu ngân quĩ. Tuy nhiên hiện đang tồn tại sự khác biệt giữa kế toán Việt nam và những qui định của chuẩn mực quốc tế về cổ phiếu ngân quĩ. Theo chuẩn mực quốc tế về kế toán , “tài sản” của công ty phải là nguồn lợi kinh tế sẽ mang lại lợi nhuận cho công ty và việc mua lại cổ phiếu ngân quĩ này là luồng đi ra của tài sản DN. Trong khi đó theo kế toán Việt Nam, khi công ty cổ phần mua lại những cổ phiếu do họ phát hành thì những cổ phiếu này giờ trở thành tài sản đầu tư của DN. Cụ thể là cổ phiếu quĩ sẽ được phản ảnh vào tài khoản 121 “đầu tư chứng khoán ngắn hạn”, chi tiết 1211 – cổ phiếu. Việc hạch toán như vậy cũng có nghĩa là công ty cổ phần chuyển đổi từ vốn bằng tiền sang thành một khoản đầu tư tài chính. Khoản “đầu tư chứng khoán 121” của Việt nam cũng được hiểu là những hoạt động đầu tư ra bên ngoài DN với mục đích kiếm lời. Trong khi đó cổ phiếu ngân quĩ mà công ty đang nắm giữ là những cổ phiếu hiện đang không còn lưu hành nữa, cổ tức của những cổ phiếu này cũng không phải trả, nghĩa là chẳng có khoản lợi nào được tạo ra khi công ty đang nắm giữ những cổ phiếu này. Vậy thì cổ phiếu ngân quĩ có nên xem là tài sản của DN hay không?

            Ngoài ra cũng theo qui định của kế toán Việt nam, số dư tài khoản 121, phần giá trị cổ phiếu ngân quĩ được ghi bằng số âm dưới hình thức ghi trong ngoặc đơn (***) đặt dưới chỉ tiêu nguồn vốn kinh doanh của mục B – nguồn  vốn chủ sở hữu, bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán. Thực tế cho thấy, việc phản ánh như vậy chưa thật rõ ràng, vì một khoản được xem là tài sản, nhưng khi trình bày trên bảng cân đối kế toán lại phản ánh bên nguồn vốn.

Tại một DN khác, hội đồng quản trị quyết định dùng các quĩ DN để mua lại các cổ phiếu làm cổ phiếu ngân quĩ như quĩ đầu tư phát triển, quĩ khấu hao... Cách hạch toán như vậy sẽ trực tiếp thay đổi vốn chủ sở hữu (vốn chủ sở hữu giảm). Ví dụ sau đây sẽ cho thấy việc hạch toán cổ phiếu ngân quỹ làm giảm vốn chủ sở hữu: công ty cổ phần B có bảng cân đối kế toán trước khi mua lại cổ phiếu làm cổ phiếu quĩ như sau: (trích)

Nguồn vốn chủ sở hữu:                      10.140.000.000

Nguồn vốn kinh doanh:                     10.000.000.000

(cổ phiếu thường 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đ/cổ phiếu)

Quĩ đầu tư phát triển:                                       20.000.000

Lợi nhuận chưa phân phối:    120.000.000

Giả sử công ty B dùng quĩ đầu tư phát triển mua lại 2.000 cổ phiếu để làm cổ phiếu ngân quĩ, giá mua đúng  bằng mệnh giá 10.000 đ/ cổ phiếu. Vậy bảng cân đối kế toán sau khi mua lại sẽ là:

Nguồn  vốn chủ sở hữu          10.120.000.000

Nguồn vốn kinh doanh           10.000.000.000

(cổ phiếu thường 1.000.000 cổ phiếu, mệnh giá 10.000 đồng/cổ phiếu

Lợi nhuận thực hiện               120.000.000

Vậy tổng vốn sở hữu có giảm đi, tuy nhiên giá trị phần vốn điều lệ không thay đổi, phần mô tả cổ phiếu trên nếu mô tả là 998.000 cổ  phiếu thì cũng  không chính xác (vì nếu lấy vốn kinh doanh  là 10.000.000.000 chia cho số cổ phiếu thì mệnh giá bây giờ tăng thành 10.020 đ >10.000 đồng/cổ phiếu). Nếu vẫn tiếp tục mô tả 1.000.000 cổ phiếu thì cũng không phải vì thực sự chỉ có 998.000 cổ phiếu đang lưu hành còn 2.000 cổ phiếu ký quĩ hiện đang không còn lưu hành nữa. Ngoài ra chẳng có sự trình bày thích hợp nào khác trên bảng cân đối kế toán cho thấy được những chi phí bỏ ra để mua lại cổ phiếu ngân quĩ.

Sau khi giữ cổ phiếu ngân quĩ một thời gian, khi có nhu cầu, công ty cổ phần có thể tái phát hành lại cổ phiếu ngân quĩ. Theo kế toán  Việt nam khi đó phần chênh lệch giữa giá bán cổ phiếu ngân quĩ ra thị trường và giá mà công ty cổ phần đã mua lại những cổ phiếu này trước kia sẽ được xem như doanh thu hay chi phí hoạt động tài chính, hoặc có một số DN hạch toán trực tiếp làm tăng hay giảm lợi nhuận chưa phân phối. Như đã đề cập ở phần trên, theo chuẩn mực kế toán quốc tế  qui định (SIC 16) là “không có khoản thu nhập hay mất mát nào ghi nhận trên báo cáo thu nhập liên quan đến việc bán, phát hành hay chấm dứt sử dụng của cổ phiếu ngân quĩ”. Nhiều ý kiến cho rằng việc phản ánh của kế toán Việt nam liên quan đến việc tái phát hành của cổ phiếu ngân quĩ là chưa chính xác.

 

3.2. Về vấn đề liên quan đến lập báo cáo tài chính hợp nhất.

Về thời điểm lập báo cáo tài chính hợp nhất (BCTCHN) lần đầu tiên, VAS 25 – BCTCHN và các khoản đầu tư vào công ty con không quy định, còn VAS 11 – Hợp nhất kinh doanh thì quy định thời điểm lập BCTCHN “đó là thời điểm sớm nhất theo quy định hiện hành”. Thông tư 161/2007/TT-BTC cũng không quy định. Tuy nhiên, khi hướng dẫn sự điều chỉnh trong quá trình hợp nhất thì lại luôn xuất hiện cụm từ “…điều chỉnh từ sau ngày đầu tư đến cuối kỳ trước”. Với cụm từ này đối tượng quan tâm sẽ chỉ hiểu được đó là ảnh hưởng của những thay đổi trong khoản thời gian từ sau ngày đầu tư đến đầu năm nay chứ không biết được ảnh hưởng tại ngay thời điểm hợp nhất hay đầu tư. Điều này sẽ không chính xác vì không thể tính toán được những khoản chênh lệch phát sinh tại thời điểm đó (giá phí hợp nhất, lợi thế thương mại…). Bên cạnh đó, cũng không biết được ảnh hưởng của từng thời điểm đầu tư vì tại ngày đầu tư tỷ lệ vốn đầu tư vào công ty con có thể là 60% nhưng thời gian sau – chưa kết thúc năm tài chính, vẫn trong niên độ kế toán đó – tỷ lệ đầu tư của nhà đầu tư tiếp tục bổ sung thêm là 70% điều này sẽ không xử lý được nếu cứ áp dụng theo quy định hiện hành. Thực tế hiện nay theo quy định của Chuẩn mực kế toán quốc tế số 27 (IFRS 27), BCTCHN và BCTC riêng có chia thời điểm lập BCTCHN thành là: thời điểm hợp nhất, thời điểm cuối năm của năm hợp nhất, thời điểm năm hợp nhất liền kề và thời điểm những năm tiếp theo.

Theo quy định hiện hành về BCTCHN, đối tượng quan tâm sẽ thấy hầu như đây là những quy định để lập Bảng cân đối kế toán hợp nhất mà không có các BCTC khác (vì theo quy định hệ thống BCTCHN phải gồm 04 mẫu biểu báo cáo), mặc dù Báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất tuy đề cập tới nhưng chỉ có chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế thu nhập DN rất khó thực hiện. Như vậy, với quy định này thì cuối kỳ lập BCTCHN sẽ thực hiện rất khó khăn. Đối với các chuẩn mực kế toán quốc tế thì có quy định đầy đủ đến Bảng cân đối kế toán hợp nhất, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất và Báo cáo lưu chuyển tiền tệ hợp nhất.

Theo Thông tư số 23/2005/TT-BTC ngày 30/3/2005 của Bộ Tài chính, phần hướng dẫn kế toán Chuẩn mực “BCTCHN và kế toán khoản đầu tư vào công ty con” tại điểm hướng dẫn bổ sung Mục C “Lợi ích của cổ đông thiểu số” trong Bảng cân đối kế toán hợp nhất có mã số là 500. Nhưng phần “Tổng cộng nguồn vốn” vẫn là mã số 440 là chưa hợp lý nhưng vấn đề này vẫn chưa được điều chỉnh trong thông tư 161/2007/TT-BTC; đồng thời cũng chưa quy định về việc xác định Lợi ích của cổ đông thiểu số một cách cụ thể.

Bên cạnh đó, thực tế cho thấy, so với trước đây thì việc lập hệ thống BCTC hiện nay phức tạp hơn nhiều, Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và báo cáo lưu chuyển tiền tệ có nhiều chỉ tiêu được tổng hợp, rút gọn hơn trước đây và những chỉ tiêu này sẽ được trình bày rõ hơn trong phần thuyết minh, điều này dẫn đến vấn đề là để lập được BCTC này thì cần thiết phải Lập Bản thuyết minh BCTC trước vì như vậy mới có cơ sở số liệu để ghi vào các chỉ tiêu được tham chiếu. Theo quy trình lập hệ thống BCTC là lại lập Bản thuyết minh BCTC trước là hoàn toàn không hợp lý. Bên cạnh đó, trong quá trình hạch toán kế toán, chế độ quy định có 3 hoạt động là hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động khác. Nhưng trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh lại chia ra 2 hoạt động kinh doanh (bao gồm hoạt động kinh doanh và hoạt động tài chính) và hoạt động khác điều này làm cho sự tư duy của người lập chưa được logic. Hơn thế nữa, trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ lại chia ra luồng tiền của 3 hoạt động là hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động khác, với cách quy định này thì cơ bản thống nhất với quy định về hạch toán nhưng vẫn không thống nhất với việc trình bày trên Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh./.

 

Tài liệu tham khảo:

1. Kế toán quản trị trong DN, Tạp chí Kế toán số tháng 9-2007;

 2.Ý kiến trao đổi vể hướng dẫn áp dụng kế toán quản trị trong DN, Tạp chí Kinh tế phát triển số tháng 12-2008;

3. Kế toán quản trị trong kiểm soát chất lượng toàn diện - Vấn đề cần quan tâm của các DN Việt Nam, http://www.vaa.vn, 17-10-2008;

4. PGS TS. Phạm Văn Dược (2002), “Vận dụng kế toán quản trị vào các DN Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học, Trường Đại Học Kinh Tế Tp.HCM;

5. Nguyễn Sơn, “Tăng cường quản lý giám sát nhằm phát triển ổn định, bền vững TTCK Việt nam”, Hội thảo khoa học quốc tế “Cơ chế và biện pháp giám sát TTTC Việt Nam và Trung Quốc”, Hà Nội, 11/2008

6. Nguyễn Đình Tài, Sự hình thành và phát triển TTTC của nền kinh tế chuyển đổi Việt nam, NXB “Chính trị Quốc gia”, 1999.

7. Robert S.Kaplan, Anthony A.Atkinson, “Advanced Management Accounting” (Second Edition), Prentice Hall International Inc, Chapter 10: “Measuring Quality” pages: 372- 411;

8. Anthony A.Atkinson, Rajiv D. Banker, Robert S.Kaplan,, S. Mark Young, “Management Accounting” (Third Edition), Prentice Hall International Inc, Chapter 10: “Motivating Behavior in Management Accounting anh Control Systems” pages: 394- 424

Lượt xem: 0

CHỦ ĐỘNG SỬ DỤNG VÀ ỨNG PHÓ VỚI PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI

1. Xu hướng sử dụng và hệ lụy của sử dụng phòng vệ thương mại Cùng với xu hướng tự do hóa thương mại, trong những năm gần đây, xu thế bảo hộ thông qua sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cũng đang diễn biến theo nhiều cách thức, mức độ khác nhau, kể cả tại một số nền kinh tế lớn. Về nguyên tắc, để bảo hộ mậu dịch, các nước có thể dùng phối hợp các công cụ bảo hộ thuế quan và phi thuế quan. Chúng có thể có nhiều hình thức, bao gồm: Thuế và các hàng rào phi thuế quan. Nhưng xu hướng hiện nay là ngày càng giảm các hàng rào thuế quan và gia tăng các công cụ phi thuế quan, bao gồm: cấm nhập khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; giấy phép nhập khẩu; giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp, tự nguyện hạn chế xuất khẩu, yêu cầu nội địa hóa, lệnh cấm vận, giá nhập khẩu tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, giá xuất khẩu tối thiểu và giá hành chính; các yêu cầu thanh toán trước; tiền gửi nhập khẩu trước; yêu cầu giới hạn tiền mặt; trả trước thuế hải quan; tỷ giá hối đoái đa dạng; quản lý ngoại hối; thuế nội địa đối với nhập khẩu (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng); biện pháp về hành chính kĩ thuật (bao gồm hình thức hàng đổi hàng, đặt cọc, thủ tục hải quan, mua sắm chính phủ, quy tắc xuất xứ, chất lượng, an toàn hoặc kích thước, kí hiệu, thử nghiệm và các phương pháp thử nghiệm, đóng gói, đóng dấu, và các yêu cầu dán nhãn cho một sản phẩm)…   Các biện pháp phòng vệ thương mại là tên gọi chung của ba nhóm biện pháp: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Các biện pháp này được ghi nhận cả trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và trong các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực được các quốc gia trên thế giới ký kết. Theo đó, các quốc gia có quyền tăng thuế nhập khẩu hoặc áp dụng một số biện pháp hạn chế nhập khẩu phù hợp, nếu xác định rằng việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu là nguyên nhân gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Để đi đến quyết định áp dụng một biện pháp phòng vệ thương mại, các hiệp định của WTO quy định nước nhập khẩu phải tiến hành một quy trình điều tra, phân tích trên cơ sở thu thập thông tin từ các bên liên quan, trong đó có thông tin từ các doanh nghiệp sản xuất trong nước, doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của nước ngoài và doanh nghiệp nhập khẩu. Quy trình điều tra này có thể kéo dài từ 12 đến 18 tháng. Nếu các phân tích cho thấy các điều kiện áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại được đáp ứng, nước nhập khẩu mới có thể đưa ra quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Tại Việt Nam, quy trình điều tra này được cụ thể hóa trong Luật Quản lý ngoại thương, Nghị định số 10/2018/NĐ-CP và các văn bản pháp lý liên quan. Mặt khác, để bảo đảm hiệu quả của các biện pháp phòng vệ thương mại, các quốc gia áp dụng biện pháp cũng tích cực giám sát, theo dõi sự biến động của luồng hàng hóa nhập khẩu để phát hiện các hành vi gian lận nhằm lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Trong trường hợp phát hiện hành vi gian lận, nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại có thể điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại để mở rộng áp dụng phạm vi áp dụng cho hàng hóa tương tự của quốc gia mà tại đó hành vi gian lận xảy ra, gây ảnh hưởng liên đới tới các doanh nghiệp xuất khẩu chân chính. Nghiên cứu mới đây của WTO cho thấy, thời gian qua, các biện pháp hạn chế/bảo hộ thương mại được các thành viên WTO áp dụng đã gia tăng một cách kỷ lục. Kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008, thế giới đã có thêm 4.000 biện pháp bảo hộ thương mại mới được áp dụng gồm: Biện pháp phòng vệ thương mại, tăng thuế, rào cản địa phương, trợ cấp phí xuất khẩu, và các phân biệt đối xử. Năm 2016, các nước thành viên WTO đã điều tra 345 vụ phòng vệ thương mại, tăng 24,5% so với năm 2015, với 300 vụ chống bán phá giá, 34 vụ chống trợ cấp và 11 vụ việc điều tra tự vệ. Riêng trong giai đoạn từ tháng 10/2018 đến tháng 10/2019, tổng giá trị thương mại bị ảnh hưởng do việc áp dụng các biện pháp này dự tính khoảng 747 tỷ USD. Trong số hơn 2.800 biện pháp hạn chế thương mại ghi nhận qua các thời kỳ kiểm tra chính sách thương mại từ tháng 10/2008 đến nay, mới chỉ có 25% đã được bãi bỏ. Tại Mỹ, để bảo vệ lợi ích của mình, nước này đang áp dụng 80% trong số 31.000 biện pháp “bảo hộ mậu dịch” trên thế giới hiện nay. Việc bảo hộ mậu dịch có tác động hai mặt: Một mặt, bảo hộ đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong nước và khuyến khích phát triển một số ngành nghề; hạn chế tiêu dùng; bảo đảm an toàn sức khỏe con người, động thực vật, môi trường, cân bằng cán cân thanh toán và đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước; tăng việc làm mới và phân phối lại thu nhập… Mặt khác, bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng (hay cung cấp dịch vụ) ở mức có lợi nhất cho họ; giảm động lực áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, ảnh hưởng đến sự phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế xét theo mục tiêu dài hạn. Các hàng rào phi thuế quan đôi khi cũng làm nhiễu tín hiệu của thị trường mà người sản xuất dựa vào đó để ra quyết định. Tín hiệu này chính là giá thị trường. Khi bị làm sai lệch, nó sẽ phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thật sự chỉ dẫn sai việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế. Không những thế, các hàng rào phi thuế quan thường đòi hỏi chi phí của Nhà nước để duy trì hệ thống điều hành kiểm soát thương mại phi thuế quan. Việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho Nhà nước, mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đãi đặc quyền như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế. 2. Thực tế ứng phó và sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại ở Việt Nam Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại tự do với 60 đối tác thương mại thông qua việc ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định FTA với Liên minh châu Âu (EVFTA). Đối với hàng hóa nội địa, mức cắt giảm thuế quan hầu hết về 0% đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có độ mở cửa cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, quá trình mở cửa, dù theo lộ trình, với các đối tác thương mại lớn có thể làm cho một số ngành sản xuất trong nước không thích ứng kịp với diễn biến cạnh tranh phức tạp, thậm chí không lành mạnh (như bán phá giá, nhận trợ cấp) của hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Đồng thời, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng bị các nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với tần suất cao. Các vụ kiện này không chỉ diễn ra với hàng hóa có thế mạnh xuất khẩu mà với ngay cả các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu thấp. Việc này có thể gây ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp tới các ngành sản xuất, xuất khẩu và gián tiếp đặt ra các gánh nặng về kinh tế, xã hội. Cùng với sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu trong thời gian qua, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với các vụ việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài. Theo VCCI, tính đến tháng 10/2015, đã có hơn 94 vụ kiện chống bán phá giá, kiện chống trợ cấp, kiện tự vệ đối với hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường nước ngoài. Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính hết năm 2018, đã có 144 vụ phòng vệ thương mại do 18 quốc gia và vùng lãnh thổ khởi xướng điều tra, áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, số liệu 3 năm gần đây cho thấy số lượng điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hàng hoá xuất khẩu Việt Nam đang tăng nhanh, cụ thể: Theo Bộ Công Thương, tính đến hết tháng 12/2021, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là đối tượng của 209 vụ việc điều tra liên quan đến phòng vệ thương mại. Riêng trong năm 2021 có 08 vụ việc mới do nước ngoài khởi xướng, bên cạnh nhiều vụ việc cũ đang tiếp tục được điều tra và các vụ việc rà soát hằng năm, rà soát cuối kỳ.  Các con số tương tự đến hết năm 2022 là 226 vụ việc điều tra và 17 vụ việc mới; đến hết năm 2023 là 242 vụ và 15 vụ việc mới. Tính đến tháng 6/2024 hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với 252 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ 24 thị trường và vùng lãnh thổ. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia thường xuyên sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Theo thống kê của WTO, tính đến hết tháng 12/2022, Hoa Kỳ đã điều tra 53 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, chiếm khoảng 25% tổng số vụ việc nước ngoài điều tra với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2022, Hoa Kỳ đã khởi xướng điều tra mới 12 vụ việc, trong đó chủ yếu là điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại (11 vụ). Các mặt hàng bị điều tra gồm các sản phẩm thép, pin năng lượng mặt trời, tủ gỗ, ghim dập, thép dây... Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng tiến hành rà soát một số biện pháp phòng vệ thương mại đã áp dụng trước đó, như rà soát hành chính thuế chống trợ cấp với lốp xe, rà soát hành chính thuế chống bán phá giá với cá tra, cá basa. Nguyên nhân của việc gia tăng số lượng các vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam gắn với hệ quả của quá trình đẩy nhanh tự do hoá thương mại của Việt Nam với thế giới và cả xu thế bảo hộ thương mại khi xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc bùng nổ. Bởi lẽ, để bảo đảm hiệu quả của các biện pháp phòng vệ thương mại, các quốc gia áp dụng biện pháp cũng tích cực giám sát, theo dõi sự biến động của luồng hàng hóa nhập khẩu để phát hiện các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Trong trường hợp phát hiện hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, nước áp dụng biện pháp có xu hướng tiến hành các cuộc điều tra lẩn tránh để mở rộng phạm vi áp dụng đến hàng hóa tương tự của quốc gia mà tại đó hành vi lẩn tránh xảy ra, gây ảnh hưởng liên đới tới các doanh nghiệp xuất khẩu chân chính. Các vụ việc mà Hoa Kỳ nhắm vào hàng hóa của Trung Quốc nghi ngờ chuyển tải qua nước thứ ba, trong đó có Việt Nam, để lẩn tránh các mức thuế cao do Hoa Kỳ áp dụng là ví dụ điển hình. Mặc dù nguyên nhân lớn nhất của việc gia tăng các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại là xu thế bảo hộ thương mại, còn có các nguyên nhân khác như sự thiếu kiến thức về pháp luật phòng vệ thương mại nói chung cũng như pháp luật về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại nói riêng của các doanh nghiệp Việt Nam, thiếu thông tin về các vụ việc phòng vệ thương mại đang áp dụng, chạy theo lợi nhuận trước mắt... Bên cạnh đó, có thể có một số doanh nghiệp cá biệt lợi dụng chính sách đầu tư, chính sách thuận lợi hóa thương mại đối với các mặt hàng xuất khẩu để thực hiện các hành vi gian lận thương mại. Xu hướng mới trong bảo hộ thương mại của các nước có thể sẽ khiến trong tương lai gần hàng hóa Việt Nam xuất khẩu (như vào Hoa Kỳ) được lợi thế về giá; tuy vậy, có thể  thúc đẩy việc lợi dụng và giả mạo xuất xứ Việt Nam, kéo theo việc Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc chiến và bị áp dụng các biện pháp thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam… Các vụ kiện chống bán phá giá cá tra - basa, tôm, chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với thép cuộn, thép chống ăn mòn do Mỹ khởi xướng; chống trợ cấp dây đồng, ống thép không gỉ do Ấn Độ khởi xướng; biện pháp tự vệ với thép nhập khẩu vào EU... khiến Việt Nam gặp khó khăn trên thị trường quốc tế. Để giảm thiểu số lượng vụ việc hàng hóa Việt Nam bị điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại cũng như tác động tiêu cực mà các vụ việc này gây ra đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, các cơ quan quản lý cần có các biện pháp tổng thể và lâu dài; trước mắt, tập trung vào ngăn chặn hiện tượng Việt Nam bị lợi dụng làm điểm trung chuyển để xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba, đặc biệt tránh bị rơi vào hệ lụy của xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc, bảo vệ uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, hướng tới xuất khẩu bền vững; đồng thời, giảm thiểu tình trạng các doanh nghiệp đầu tư không thực chất, chỉ thực hiện các giai đoạn gia công đơn giản, không mang lại giá trị gia tăng đáng kể vào Việt Nam; tiếp tục quá trình đổi mới toàn diện, đẩy mạnh chủ động hội nhập quốc tế và bảo đảm thực thi có hiệu quả cam kết của các FTA mà Việt Nam đang và sẽ tham gia. Đồng thời, Việt Nam cũng cần đa dạng hóa thị trường, chủ động nhận diện, thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp đủ năng lực vượt qua các hàng rào kỹ thuật từ các đối tác xuất khẩu; cũng như, nhận thức đúng đắn và coi trọng xây dựng hàng rào kỹ thuật bảo vệ thị trường và lợi ích quốc gia, cộng đồng doanh nghiệp nội địa; tăng cường năng lực đối phó với những vụ kiện phòng vệ thương mại, đồng thời, linh hoạt sử dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống bán trợ giá để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà sản xuất trong nước, phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp biết và vận dụng… Ngày 04/7/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 824/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ. Ngày 31/12/2019, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 119/NQ-CP về một số biện pháp cấp bách nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng chống gian lận xuất xứ, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp. Thực hiện các chủ trương nói trên, thời gian qua, các đơn vị liên quan trong và ngoài Bộ Công Thương đã chủ động rà soát, xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Trong năm 2022, Bộ Công Thương đã phối hợp cùng với các Bộ, ngành liên quan triển khai có hệ thống hàng loạt các hoạt động, như cảnh báo sớm các mặt hàng có nguy cơ bị nước ngoài điều tra phòng vệ thương mại; hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu xử lý ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại cụ thể; tham gia cung cung cấp, giải trình các chính sách của Chính phủ bị cáo buộc trợ cấp; tham gia phản biện pháp lý đối với các vi phạm, khả năng vi phạm cam kết quốc tế của cơ quan điều tra nước ngoài; tiến hành các hoạt động giải quyết tranh chấp tại WTO; thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế để góp phần nâng cao năng lực phòng vệ thương mại. Trên cơ sở danh sách cảnh báo, các cơ quan chức năng của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã phối hợp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xác minh việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo xuất xứ khi thông quan, đăng ký đầu tư nước ngoài... Đồng thời, các Hiệp hội, doanh nghiệp liên quan có thể chủ động xây dựng chiến lược sản xuất, xuất khẩu, chuẩn bị nguồn lực, xây dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp vụ việc xảy ra. Bộ Công Thương cũng đã phối hợp với Tổng cục Hải quan và cơ quan điều tra nước ngoài làm rõ các cáo buộc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin nhằm chống lẩn tránh phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; đưa ra các khuyến nghị cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nhằm tránh bị các nước khác điều tra phòng vệ thương mại, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Các nỗ lực của Việt Nam đã được một số đối tác ghi nhận và đánh giá cao. Trong năm 2023, Bộ Công Thương tiếp tục triển khai các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 01/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại” và Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ” nhằm đưa ra những dự báo từ sớm, từ xa những mặt hàng xuất khẩu có nguy cơ bị nước ngoài tiến hành điều tra phòng vệ thương mại. Trên cơ sở những dự báo này, các ngành sản xuất trong nước có thêm thời gian chuẩn bị và chủ động hơn trong việc hợp tác với các cơ quan điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, từ đó, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp, hạn chế và giảm đáng kể những tác động tiêu cực của các biện pháp phòng vệ thương mại mà nước ngoài áp dụng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, đến hết năm 2023, Việt Nam đã tiến hành điều tra tổng cộng 27 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, trong đó có 18 vụ việc chống bán phá giá, 01 vụ việc chống trợ cấp, 06 vụ việc tự vệ và 02 vụ việc chống lẩn tránh. Trong năm 2023, Bộ Công Thương tiếp nhận và xử lý 05 hồ sơ đề nghị điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá của ngành sản xuất trong nước, trong đó đã ban hành quyết định khởi xướng điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá với 02 vụ việc, đối với 03 hồ sơ còn lại, Bộ Công Thương đang tiếp tục đề nghị ngành sản xuất trong nước hoàn thiện hồ sơ theo đúng quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã hoàn thành rà soát với 07 vụ việc và triển khai điều tra, rà soát với 04 vụ việc rà soát các biện pháp phòng vệ thương mại đang được áp dụng theo quy định để đảm bảo các biện pháp được áp dụng đúng đối tượng, đúng mức độ và đúng điều kiện, trong đó có 04 vụ việc rà soát nhà xuất khẩu mới, 04 vụ việc rà soát hằng năm và 03 vụ việc rà soát cuối kỳ. Bộ Công Thương cũng theo dõi sát diễn biến giá cũng như tình hình nhập khẩu và rà soát định kỳ để điều chỉnh biện pháp phòng vệ thương mại cho phù hợp thực tiễn, tránh hiện tượng hàng hóa tăng giá do phòng vệ thương mại hay giảm động lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của các cơ quan chức năng trong quá trình xử lý các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài đã đem lại những kết quả tích cực trong việc chứng minh doanh nghiệp không bán phá giá hay Chính phủ không trợ cấp, không can thiệp vào thị trường để tạo lợi thế bất bình đẳng cho doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường như Hoa Kỳ, Canada, Australia, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia… Theo tính toán, những ngành sản xuất đang được bảo vệ bởi các biện pháp phòng vệ thương mại ước tính đóng góp khoảng 6,3% GDP của cả nước. Nhờ đó, các doanh nghiệp xuất khẩu không bị áp thuế phòng vệ thương mại hoặc bị áp thuế ở mức thấp, góp phần giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các biện pháp phòng vệ thương mại đã và đang áp dụng góp phần bảo vệ công ăn việc làm của hàng trăm nghìn người lao động trong các lĩnh vực, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và hỗ trợ cân bằng cán cân thanh toán quốc tế; góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước hàng nghìn tỉ đồng; giảm bớt quy mô nhập khẩu và cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định giá đầu vào cho một số ngành sản xuất trong nước. Về triển vọng, điểm cần nhấn mạnh là Việt Nam cần chú ý chủ động và hài hoà hơn giữa đối phó với các biện pháp phòng vệ thuơng mại quốc tế, với sử dụng hợp lý, hiệu quả các công cụ phòng vệ thương mại hợp pháp trong khuôn khổ WTO và các FTA mà Việt Nam đang và sẽ là thành viên, để vừa gia tăng xuất khẩu, vừa bảo vệ các ngành sản xuất và việc làm trong nước, đồng thời giảm mức độ phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu. Thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện về cơ sở pháp lý đối với công cụ phòng vệ thương mại; công khai thông tin, hỗ trợ tìm kiếm, tập hợp số liệu chính thức thuộc kiểm soát của cơ quan Nhà nước, đồng thời, có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất trong nước thông qua việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ trên nguyên tắc công khai, minh bạch, tuân thủ quy định pháp luật và phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam...; tăng cường ngăn chặn hiện tượng Việt Nam bị lợi dụng làm điểm trung chuyển để xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba, bảo vệ uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, hướng tới xuất khẩu bền vững. Đồng thời, chú ý bồi dưỡng và cập nhật thông tin, kiến thức, nhận thức, ý thức và năng lực cho cộng đồng doanh nghiệp Việt trong việc nâng cao sức đề kháng và sự chủ động đối phó và sử dụng công cụ phòng vệ thương mại, vượt lên tâm lý ngại kiện, hợp tác tương hỗ lẫn nhau, tạo dựng doanh nghiệp mạnh nhằm kiến tạo lợi thế quốc gia và bảo vệ hiệu quả lợi ích cộng đồng, cũng như lợi ích sát sườn của bản thân doanh nghiệp. Tác giả: TS. Nguyễn Minh Phong, Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên truyền lý luận, Báo Nhân dân (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán tháng 12/2024) 

TÁI CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Sau tiếng cồng khai trương phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên trong năm Nhâm Thìn của Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, những tín hiệu lạc quan cho các mã cổ phiếu giao dịch đã bao trùm trên bảng điện tử, nối tiếp những tín hiệu về một thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ “xanh” hơn trong năm 2012 kể từ sau khi Bộ Tài chính công bố một trong số các biện pháp “cứu” TTCK là Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán (CTCK)   Công ty chứng khoán- Phân loại khốc liệt?                 Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán được Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành ngày 10/1/2012 tại Quyết định số 62/QĐ-BTC. Đây được coi là một mắt xích trong chuỗi giải cứu TTCK trong năm 2012 và những năm tiếp theo.                 Đề án này ra đời nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro của các công ty chứng khoán. Trên cơ sở đó, từng bước thu hẹp số lượng các công ty chứng khoán, đồng thời tăng cường khả năng, hiệu quả quản lý, giám sát đối với hoạt động công ty chứng khoán; mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo lộ trình hội nhập đã cam kết.                 Việc phân loại các CTCK để tái cấu trúc sẽ dựa trên cơ sở Thông tư 226 của BTC quy định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng các chỉ tiêu an toàn tài chính để tiến hành rà soát phân nhóm các CTCK theo mức độ rủi ro giảm dần, dựa trên 2 chỉ tiêu: Vốn khả dụng/tổng rủi ro (bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, và rủi ro hoạt động) và tỷ lệ lỗ lũy kế/vốn điều lệ. Theo đó, nhóm 1 (nhóm bình thường) bao gồm các TCCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro trên 150% và có lãi hoặc lỗ lũy kế dưới 30% VĐL; nhóm 2 (nhóm kiểm soát) gồm các CTCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 150% tới trên 120% và có lỗ lũy kế từ 30% đến 50% VĐL; nhóm 3 (nhóm kiểm soát đặc biệt) gồm các CTCK có tỉ lệ vốn  khả dụng/tổng rủi ro dưới 120% và có lỗ lũy kế từ trên 50% VĐL.                 Theo phát biểu của người đứng đầu Ủy ban chứng khoán (UBCK) thì việc phân loại theo Thông tư 226 thực sự là cuộc chiến “khốc liệt” và ngày từ trước khi Đề án Tái cấu trúc CTCK được ban hành, Ủy ban này đã tiến hành làm việc với nhiều công ty để ra soát, nắm lại thực trạng tài chính làm căn cứ để tiến hành phân loại.                 Theo đề án thì ngay trong quý I/2012 (đến tháng 4/2012), những công ty chứng khoán có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro không đảm bảo quy định của Thông tư 226 sẽ phải thực hiện chế độ báo cáo hằng tuần, thậm chí hằng ngày (đối với những CTCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 120%). Nếu phát hiện CTCK chưa thực hiện tách biệt tài sản của NĐT khi đoàn kiểm tra phát hiện được, CTCK buộc phải thực hiện tách bạch trong thời hạn tối đa 2 tháng. Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam kiểm soát chặt chẽ vấn đề thanh toán giao dịch của CTCK. Còn trong trường hợp liên tục vi phạm thiếu tiền thanh toán, lạm dụng tiền gửi của khách hàng, xem xét rút phép nghiệp vụ môi giới.                 Các biện pháp tái cấu trúc tiếp theo trong giai đoạn những tháng còn lại của năm 2012 và sau năm 2012 cơ quan quản lý sẽ thực hiện các biện pháp mạnh tay hơn bao gồm cả kỹ thuật và hành chính. “Chúng tôi kết hợp 2 giải pháp hành chính và kỹ thuật, trong đó chủ yếu là biện pháp kỹ thuật. Đặt CTCK vào tình trạng kiểm soát thì buộc các đơn vị này phải lo tái cấu trúc: Khoanh nợ, bán tài sản xấu, giảm rủi ro, thu hẹp hoạt động. Khi đã vào nhóm kiểm soát đặc biệt thì CTCK phải có các biện pháp hành chính như họp ĐHCĐ rút nghiệp vụ môi giới”, Chủ tịch UBCK Vũ Bằng cho biết.                 Theo biện pháp được triển khai từ sau năm 2012, đề án đưa ra là cần tăng cường năng lực quản trị và hoạt động của các công ty chứng khoán dựa trên ba trụ cột chính: Quy định về mức độ đủ vốn; Quy định về hướng dẫn thông lệ khuôn khổ quản lý rủi ro cho các công ty chứng khoán; Đánh giá, xếp hạng các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo thông lệ quốc tế từ đó phân loại và giám sát các tổ chức này.                 Đề án cũng đặt ra vấn đề là thu hẹp số lượng CTCK. Vấn đề là thu hẹp đến mức nào thì chưa có đề xuất cụ thể. Với con số hơn 100 CTCK-luôn được cho là quá nhiều như hiện nay thì bao nhiêu CTCK sẽ là phù hợp với TTCK Việt Nam sau khi Đề án tái cấu trúc TTCK chính thức được triển khai? Tuy nhiên, việc giảm bớt số lượng CTCK cũng không hề đơn giản. Bởi theo nhiều nhận định thì tư duy nhiệm kỳ, vấn đề lợi ích nhóm sẽ là rào cản cho vấn đề này.                 “Chứng khoán 2012 sẽ tiền hung, hậu cát” Đây là nhận định của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ trong thông điệp đầu năm mới khi được báo giới hỏi về sự phát triển của TTCK trong năm 2012. Người đứng đầu Bộ Tài chính cho rằng năm nay kinh tế thế giới và Việt Nam vẫn gặp khó khăn. Nhưng “cái khó sẽ ló cái khôn", "tiền hung hậu cát" (khởi đầu khó khăn, kết thúc tốt đẹp). Cùng với các giải pháp quyết liệt về kỹ thuật, Bộ trưởng khẳng định cơ quan quản lý sẽ đảm bảo cho thị trường ngày một thông suốt, hiện đại và minh bạch hơn. "Các nhà đầu tư yên tâm với việc tin vào Chính phủ, tin vào các chính sách tái cấu trúc thì TTCK sẽ vượt qua khó khăn, phát triển hơn năm 2011". Bày tỏ niềm tin rằng 2012 sẽ là năm “khởi sắc” khi TTCK được tái cơ cấu, ông Huệ cho rằng việc đầu tiên cần làm là “trả lại tên cho chứng khoán” - một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, chứ không để ngân hàng “lấn sân” như suốt thời gian qua. Tiếp đến sẽ sửa luật Chứng khoán, xử lý các công ty chứng khoán (CTCK) thua lỗ, yếu kém theo đề án tái cấu trúc đã được phê duyệt. Theo ông Huệ, TTCK là phong vũ biểu đo lường kinh tế vĩ mô, ngược lại, kinh tế vĩ mô mà tốt thì cũng là yếu tố thúc đẩy TTCK ổn định, tăng trưởng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động được nhiều vốn trên thị trường.                 Bên cạnh những hỗ trợ từ góc độ vĩ mô (kiểm chế lạm phát, tài khóa hiệu quả, linh hoạt…) Bộ trưởng Vương Đình Huệ cũng khẳng định, ngoài đề án Tái cấu trúc các CTCK đã ban hành, hiện nay các cơ quan chức năng, cùng với UBCKNN đang triển khai quyết liệt chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020. Riêng với các doanh nghiệp, sẽ có giải pháp đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa, hỗ trợ các doanh nghiệp để tăng hiệu quả sản xuất - cạnh tranh. Đối với 3 lĩnh vực cụ thể mà Bộ có thể trực tiếp hỗ trợ (tín dụng, thuế, phát triển trái phiếu doanh nghiệp), Bộ trưởng nhấn mạnh tới việc thúc đẩy hoạt động của các cơ quan định hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Theo đó, đây sẽ là bước đi quan trọng để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và là thành tố để phát triển TTCK trong tương lai. “Tôi nghĩ rằng, với các biện pháp ngắn hạn, trung và dài hạn quyết liệt và đồng bộ như vậy và năm 2012 là năm đánh dấu việc tái cấu trúc mạnh mẽ nền kinh tế trong đó có tái cấu trúc đầu tư công, tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, tái cấu trúc TTCK, thị trường sẽ vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, đi vào ổn định và khởi sắc”, Bộ trưởng Huệ dự báo.                 Một thông tin quan trọng, theo ông Huệ, ngay trong quý 2/2012, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ về việc thành lập Sở Giao dịch chứng khoán (GDCK) VN trên cơ sở sáp nhập 2 Sở GDCK Hà Nội và TP.HCM, tạo ra một thị trường giao dịch chứng khoán thống nhất nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả./.  

TÍN DỤNG XANH: CẦN MỘT CHIẾN LƯỢC TỔNG THỂ, KẾT NỐI VỚI CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI

Việt Nam đã có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ khoảng 650 nghìn tỷ đồng. Trong đó, tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%...   Quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng xanh tăng trưởng khá qua các năm   Theo Hiệp hội thị trường tín dụng (Loan market Association) và Hiệp hội thị trường Tín dụng châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Loan Market Association), tín dụng xanh là những khoản tín dụng nhằm hỗ trợ các dự án sản xuất, kinh doanh không/ít gây rủi ro tới môi trường, góp phần bảo vệ sinh thái chung, là biểu hiện của nền tài chính hướng đến sự phát triển bền vững. Danh mục xanh bao gồm: Năng lượng tái tạo; sử dụng năng lượng hiệu quả; giao thông xanh; sản phẩm, các công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường và/hoặc thích nghi với nền kinh tế; quản lý nước bền vững và xử lý nước thải; tòa nhà xanh; nông lâm nghiệp bền vững; ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm.   Tại Việt Nam, để hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh nói chung và mở rộng hoạt động tín dụng xanh nói riêng, Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương ban hành nhiều văn bản theo hướng không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý chung để bộ ngành, địa phương, ngành nghề triển khai nhằm tiến tới mục tiêu Net Zero năm 2050. Trong đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định, tín dụng xanh được cấp cho các dự án đầu tư: Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu; quản lí chất thải; xử lí ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường; phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; tạo ra lợi ích khác về môi trường.   Thực hiện Nghị quyết của Đảng, chủ trương của Chính phủ trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động và sáng tạo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về tiền tệ, tín dụng ngân hàng nói chung, nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, đối phó với tác động tiêu cực của thiên tai, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, phát triển kinh tế tuần hoàn. Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, phát triển nền tảng số, hạ tầng số, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số để phục vụ phát triển kinh tế số, xã hội số, góp phần phát triển bền vững.   Theo Ngân hàng Nhà nước, trong giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Nếu năm 2018, quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với lĩnh vực kinh tế xanh chỉ chiếm 3,33% trong tổng tín dụng của nền kinh tế, đến năm 2022 tăng lên 4,2%. Thời điểm tháng 6/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đạt gần 528.300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với toàn bộ nền kinh tế. Đến nay, dư nợ tín dụng xanh khoảng 650 nghìn tỷ đồng, trong đó tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%...   Bên cạnh đó, giai đoạn năm 2016-2020, Việt Nam đã có 4 đợt phát hành trái phiếu xanh, giá trị 284 triệu USD. Giai đoạn năm 2019-2024, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Nhiều tổ chức tín dụng đã ban hành quy định nội bộ về rủi ro môi trường và tác động xã hội; 80% đến 90% các ngân hàng thương mại đã áp dụng một phần hoặc toàn bộ chỉ số đánh giá môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trong hoạt động.   Thực tiễn hoạt động tín dụng xanh đã được một số ngân hàng đưa vào áp dụng, triển khai và đã đạt được những kết quả khả quan. Theo đó, nhiều ngân hàng như BIDV, Vietcombank, VietinBank, MB đạt tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân lên tới 45%/năm. Hay như SeABank đã được nhiều tập đoàn/tổ chức tài chính quốc tế như IFC, DFC và nhiều quỹ đầu tư quốc tế tài trợ vốn lên tới gần 600 triệu USD để triển khai các chương trình tín dụng xanh, hỗ trợ các hoạt động kinh doanh thuộc các ngành, lĩnh vực thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.   Xây dựng chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh   Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai nhằm thúc đẩy tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đang gặp một số khó khăn. Theo ThS. Dương Văn Bôn, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam chưa có quy định chung về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành, các lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế, làm căn cứ để các tổ chức tín dụng xác định cấp tín dụng xanh cho giai đoạn tới. Khung pháp lý về tín dụng xanh của Việt Nam chưa hoàn thiện, gây ra khó khăn trong việc phát triển hoạt động này trên thực tiễn. Nhiều văn bản pháp lý đang được ban hành về tín dụng xanh, ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước còn chung chung. Nội dung cụ thể về ngân hàng xanh, tín dụng xanh về cơ bản mới chỉ mang tính chất định hướng, khuyến khích các tổ chức tín dụng thực hiện, mà chưa mang tính bắt buộc.     Việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kỹ thuật về môi trường chuyên sâu sẽ là khó khăn cho cán bộ tín dụng của các tổ chức tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng. Đặc biệt là khách hàng trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, với dự án đi vào hoạt động trong thời gian chưa dài, hiệu quả phụ thuộc nhiều vào hợp đồng mẫu. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc giám sát và quản lý rủi ro khi thực hiện cấp tín dụng xanh do còn thiếu cơ sở pháp lý, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường.   TS. Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đánh giá, mặc dù đã có những tín hiệu tích cực trong tăng trưởng tín dụng xanh, ngân hàng xanh, song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Việc phát triển hoạt động ngân hàng xanh tại các tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập do cần nguồn lực rất lớn để triển khai; kiến thức, kinh nghiệm của các cán bộ ngân hàng thực hiện công tác thẩm định và phê duyệt cấp tín dụng liên quan các vấn đề môi trường xã hội nhìn chung còn hạn chế. Một số ngân hàng rất chủ động, tiên phong nhưng số khác lại rất chậm.   Về phía các doanh nghiệp, trong quá trình tiếp cận tài chính xanh, các doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu thông tin về các đơn vị cấp tín dụng xanh; các quỹ tín dụng xanh thường không chấp nhận tài sản bảo đảm, doanh nghiệp cần có bảo lãnh ngân hàng; các dự án quy mô nhỏ khó tiếp cận vốn vay nước ngoài…   Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, đối với tín dụng xanh, hiện Ngân hàng Nhà nước gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do hệ thống ngân hàng cần được hướng dẫn của các cơ quan, bộ ngành liên quan đến danh mục phân loại xanh để các tổ chức tín dụng có căn cứ khi cấp tín dụng. Bên cạnh đó, đầu tư vào những lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch… đòi hỏi nguồn vốn với giá trị rất lớn và kì hạn dài. Đây chính là những khó khăn của hệ thống ngân hàng khi nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng rất ngắn hạn.   Việt Nam là nước chịu tác động lớn bởi biến đổi khí hậu, tình hình bão lũ thiên tai vừa qua đặt ra yêu cầu cho các cơ quan, bộ ngành phải tập trung rà soát những giải pháp để ứng phó hiệu quả. Ngành ngân hàng đã ban hành rất nhiều các văn bản hướng dẫn để đánh giá về rủi ro và môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Tuy nhiên, việc chưa có danh mục về phân loại xanh khiến Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn. Do đó, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục quan tâm thực hiện triển khai theo đúng kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt, khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục phân loại xanh, Ngân hàng Nhà nước sẽ hướng dẫn các tổ chức tín dụng cấp tín dụng xanh và theo dõi thực hiện, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh.   Việt Nam đặt mục tiêu cuối năm 2025 tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh đạt 25% so với hiện nay; đạt 30% đến 35%/năm cho giai đoạn năm 2025-2030. Tương ứng tỷ lệ trên là mục tiêu tỷ trọng tín dụng xanh trong nền kinh tế từ 4,6% tăng lên 10% vào cuối 2025 và 20% vào cuối năm 2030. Đây là những thách thức rất lớn, mục tiêu khó khăn đối với ngành ngân hàng.   Tại diễn đàn Tài chính xanh năm 2024, Phó Giám đốc Ban kinh doanh vốn và tiền tệ Ngân hàng BIDV Nguyễn Bá Sơn khuyến nghị, cần sớm ban hành quy định phân loại và xác nhận dự án xanh, xem xét sự tương đồng giữa các tiêu chí xanh của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế; các chính sách ưu đãi để thu hút nhà đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực về môi trường và xây dựng hệ thống dữ liệu về môi trường. Cùng với đó, doanh nghiệp cần được nâng cao nhận thức và khuyến khích thực hiện chuyển đổi xanh; duy trì, mở rộng các cơ chế hỗ trợ chi phí phát hành, tư vấn kỹ thuật và khuyến khích các doanh nghiệp đầu ngành tiên phong phát hành chứng khoán xanh.   Các chuyên gia cho rằng, để phát triển tín dụng xanh, trước tiên là phải hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng các tiêu chí xác định dự án xanh. Đây là cơ sở để các tổ chức tín dụng làm căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh cho các dự án. Tiếp đó, Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh một cách hài hòa, hiệu quả giữa các kênh dẫn vốn, gắn với các định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; có cơ chế thu hút nguồn vốn cho đầu tư xanh bằng chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí, lãi suất và hỗ trợ các chi phí liên quan đến phát hành trái phiếu xanh, cung cấp tín dụng xanh. Các chính sách liên quan đến thị trường tài chính xanh cần sớm được ban hành hoặc lồng ghép với những chính sách về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng và ứng phó biển đổi khí hậu...   Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, từ nay đến năm 2040, Việt Nam cần đầu tư bổ sung 368 tỉ USD, tương đương khoảng 6,8% GDP mỗi năm cho lộ trình chống chịu và đưa phát thải ròng về 0.

ĐỘNG LỰC VÀ THÁCH THỨC VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Nền kinh tế đã có những bước phục hồi mạnh mẽ trong 10 tháng năm nay. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ trên 7% được đánh giá là khả thi. Tuy nhiên, diễn biến địa chính trị thế giới còn nhiều yếu tố khó lường, kinh tế thế giới chưa trở lại đà tăng trưởng mạnh mẽ. Bên cạnh đó, nội lực nền kinh tế Việt Nam vẫn còn nhiều điểm hạn chế. Do đó, để sức hồi phục của nền kinh tế mạnh mẽ và bền vững trong năm nay và năm sau, cần thực hiện các giải pháp đồng bộ và chú trọng thúc đẩy hiệu quả các động lực tăng trưởng.   Triển vọng tích cực song còn nhiều thách thức   Điểm đáng chú ý nhất trong bức tranh kinh tế từ đầu năm đến nay là chuyển biến ngày càng tích cực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi nhanh, là động lực dẫn dắt cho tăng trưởng. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10 tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 10 đạt 51,2 điểm, tăng so với 47,3 điểm của tháng 9 và đã vượt lại lên trên ngưỡng 50 điểm sau khi chịu tình trạng gián đoạn do cơn bão số 3 gây ra trong tháng trước cho thấy sản xuất công nghiệp đã phục hồi nhanh sau bão số 3. Trong tháng 10, có 22,8 nghìn doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường, tăng 29% so với tháng trước; tính chung 10 tháng có 202,3 nghìn doanh nghiệp, cao hơn số rút lui khỏi thị trường (173,2 nghìn doanh nghiệp). Các động lực tăng trưởng từ phía cầu phục hồi tích cực. Tổng vốn FDI đăng ký 10 tháng khoảng 27,3 tỷ USD, tăng 1,9% so với cùng kỳ. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng tăng 8,5% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu, nhập khẩu 10 tháng tăng lần lượt 15,8%, 14,9% và 16,8% so với cùng kỳ; xuất siêu ước đạt 23,3 tỷ USD.   Dù vậy, với tác động của các bất ổn địa chính trị toàn cầu, trong khi sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước vẫn còn yếu, nền kinh tế đang đối mặt nhiều thách thức. Trong đó, rõ rệt nhất là ngành nông nghiệp, du lịch bị ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai, các cơn bão lớn liên tiếp, đặc biệt là cơn bão số 3. Ảnh hưởng, thiệt hại bởi cơn bão số 3 cần thời gian để khắc phục. Tổng thiệt hại kinh tế ước tính sơ bộ là 81,8 nghìn tỷ đồng (tương đương 0,8% GDP năm 2023 theo giá hiện hành), gấp 6,7 lần thiệt hại thiên tai của năm 2023 và cao hơn tổng thiệt hại do thiên tai của cả ba năm 2021-2023.     Về thị trường, sức mua trong nước chậm phục hồi; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 10 tháng (nếu loại trừ yếu tố giá) tăng 4,6% so với cùng kỳ, thấp nhất từ đầu năm đến nay. Mức tăng này cũng thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm 2023 và giai đoạn 2015-2019.   Mặt khác, những bất ổn từ biến động địa chính trị thế giới đang tạo rủi ro đáng chú ý với đà phục hồi và tăng trưởng của kinh tế Việt Nam trong những tháng cuối năm nay và cả năm sau. Đó là, tình trạng xung đột quân sự tiếp tục leo thang giữa Israel - Iran, các yếu tố bất ổn mới xuất hiện tại bán đảo Triều Tiên và một số quốc gia, khu vực. Kinh tế toàn cầu phục hồi chậm, không đồng đều và thiếu vững chắc; kinh tế Mỹ duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định trong Quý III, trong khi Trung Quốc, EU, Hàn Quốc tăng trưởng thấp, tiếp tục đối mặt với nhiều rủi ro.   Đẩy mạnh các động lực tăng trưởng   Về triển vọng và giải pháp thực hiện để đạt mục tiêu tăng trưởng năm nay và năm sau, TS. Cấn Văn Lực, thành viên hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, cần thực hiện đồng bộ và hiệu quả nhiều nhóm chính sách. Trong đó, quan trọng nhất là quyết liệt đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường thuận lợi hơn cho đầu tư - kinh doanh; tháo gỡ kịp thời các vướng mắc trong quá trình triển khai các luật đã có hiệu lực, nhất là các Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Giao dịch điện tử...   Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả trong điều hành, phối hợp chính sách tiền tệ - tài khóa, chính sách giá cả nhằm thúc đẩy tăng trưởng, ổn định vĩ mô, bình ổn tỷ giá, lãi suất, thị trường tài chính - tiền tệ, đảm bảo an sinh xã hội. Theo đó, chính sách tài khóa mở rộng có trọng tâm, trọng điểm, gắn với đẩy mạnh giải ngân đầu tư công; chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, tăng khả năng tiếp cận tín dụng gắn với kiểm soát rủi ro và xử lý nợ xấu; quan tâm kiểm soát rủi ro hệ thống liên thông giữa ngân hàng - chứng khoán - bất động sản.   Đáng chú ý, cần phát huy các động lực tăng trưởng truyền thống từ xuất khẩu, đầu tư tư nhân và tiêu dùng, triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ tài khóa như giãn, hoãn, giảm thuế, phí, tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, cũng như các chính sách về tín dụng - tiền tệ để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp, các ngành, lĩnh vực bị thiệt hại bởi cơn bão số 3 vừa qua.   Trong khi đó, theo TS. Nguyễn Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Thông tin, phân tích và dự báo kinh tế, Ban Kinh tế Trung ương, một động lực tăng trưởng quan trọng trong thời gian tới là cầu đầu tư, trong đó đầu tư nhà nước là một phần và đầu tư tư nhân có thể tăng lên cùng với sự phục hồi và kỳ vọng vào đà tăng trưởng của nền kinh tế. “Tôi hy vọng, một trong những đột phá trong năm 2025 là sẽ có những quyết sách mới với đầu tư công để đẩy tiền ra nhanh hơn”, ông Tú Anh nhấn mạnh.   Từ góc độ khác, ông Nguyễn Bá Hùng, Chuyên gia Kinh tế trưởng, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam cũng cho rằng các động lực tăng trưởng ở phía cầu bao gồm tiêu dùng, đầu tư, chi tiêu chính phủ và xuất nhập khẩu. Theo đó, năm 2024, xuất nhập khẩu tăng mạnh dù có phần nhờ tăng trưởng trên nền thấp của năm trước. Năm 2025, thị trường thế giới hạ nhiệt, triển vọng xuất khẩu năm 2025 sẽ không duy trì được như năm nay. Do đó, năm 2025, cần thúc đẩy mạnh các động lực tăng trưởng như tiêu dùng, chi tiêu của Chính phủ. “Động lực tăng trưởng nằm trong tay Chính phủ, bao gồm cả chi tiêu ngân sách và đầu tư công. Đòn bẩy là chi tiêu công, kích cầu nội địa kéo đầu tư nội địa và tiêu dùng tăng lên", ông Bá Hùng đánh giá.   BOX: Tập trung triển khai các giải pháp đồng bộ, bứt phá trong giải ngân vốn đầu tư công, thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng chiến lược, nhất là những dự án có tính chất xoay chuyển tình thế, chuyển đổi trạng thái; tập trung nguồn lực cho các dự án liên vùng, liên tỉnh, liên quốc gia, quốc tế.   Trong đó, các bộ, cơ quan, địa phương có tỷ lệ giải ngân dưới mức trung bình của cả nước tập trung chỉ đạo, đôn đốc, tăng cường hơn nữa trách nhiệm của người đứng đầu trong giải ngân vốn đầu tư công. Các bộ, cơ quan, địa phương được Thủ tướng Chính phủ giao bổ sung kế hoạch năm 2024, khẩn trương thực hiện phân bổ chi tiết cho các nhiệm vụ, dự án, phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch vốn mới được bổ sung.   Tăng cường hoạt động của các Tổ công tác kiểm tra, đôn đốc giải ngân đầu tư công, nhất là đối với các bộ, cơ quan, địa phương có mức phân bổ vốn lớn nhưng tốc độ giải ngân chậm. Kịp thời xử lý khó khăn, vướng mắc, giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài để đẩy nhanh tiến độ các công trình, dự án hạ tầng quan trọng, trọng điểm quốc gia, không để xảy ra thất thoát, lãng phí.   Tiếp tục đẩy mạnh triển khai giải ngân vốn thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; khẩn trương sửa đổi, bổ sung hoặc trình cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các văn bản về quản lý, tổ chức thực hiện các Chương trình theo ngành, lĩnh vực và địa bàn được phân công; chủ động rà soát, phát hiện khó khăn, vướng mắc, có giải pháp tháo gỡ hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý kịp thời.   (Trích Nghị quyết số 218/NQ-CP ngày 12/11/2024 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 10 /2024)

CHẶNG ĐƯỜNG MỚI CỦA TÁI CƠ CẤU NGÂN HÀNG

Sau 9 năm Ngân hàng Nhà nước mua lại bắt buộc 4 ngân hàng thương mại, đến nay, mới có 2 ngân hàng 0 đồng là Ngân hàng Xây dựng (CBBank) và Ngân hàng Đại dương (OceanBank) chính thức được chuyển giao bắt buộc lần lượt cho Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Quân đội (MBBank). Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank) đã hoàn tất khâu định giá, Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á đang triển khai tích cực các công việc theo đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt. Quá trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém rất gian nan song cũng đã đi đến một bước ngoặt mới, kỳ vọng sẽ tạo được bước đột phá trong thời gian tới.      Giúp các ngân hàng yếu kém khắc phục khó khăn   Ông Nguyễn Đức Long, Phó Chánh thanh tra Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước cho biết mục tiêu của chuyển giao bắt buộc là nhằm giúp các ngân hàng yếu kém khắc phục khó khăn, đảm bảo an toàn, tuân thủ các quy định pháp luật,  trước - trong và sau quá trình chuyển giao, tiền gửi của người gửi tiền hoàn toàn được đảm bảo.   Theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, kể từ lúc được chuyển giao, toàn bộ quyền và lợi ích của chủ sở hữu, thành viên góp vốn hay cổ đông của ngân hàng được chuyển giao bắt buộc sẽ chấm dứt. Bên nhận chuyển giao sẽ tiếp nhận và chịu trách nhiệm với toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng được chuyển giao bao gồm các khoản vay, tiền gửi của khách hàng…   Về quyền lợi của ngân hàng nhận chuyển giao, theo ông Long, ngân hàng nhận chuyển giao sẽ được hưởng một số cơ chế hỗ trợ như tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tốt hơn. Tuy nhiên, các cơ chế hỗ trợ này vẫn theo quy định pháp lý hiện hành, đặc biệt là Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024.   Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành quy định rất nhiều quyền lợi mà bên nhận chuyển giao bắt buộc có thể được hưởng, bao gồm: Sở hữu 100% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc đối với trường hợp ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Không thực hiện hợp nhất báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc; Được loại trừ ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc khi tính tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất; Khoản vốn góp vào ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc không phải thực hiện trích lập dự phòng giảm giá các khoản đầu tư và được loại trừ khi tính giới hạn góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao.     Bên cạnh đó, tổ chức tín dụng trong nước khi nhận chuyển giao bắt buộc còn có thể được tạo điều kiện thông qua dự thảo quy định về việc tăng tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức tín dụng nhận chuyển giao bắt buộc. Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước dự kiến đã có tờ trình gửi Chính phủ về việc ban hành Nghị định sửa đổi, bổ sung Nghị định số 01/2014/NĐ-CP ngày 03/01/2014 của Chính phủ về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam. Trong đó, nổi bật là đề xuất nâng tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc vượt 30% nhưng không vượt quá 49% vốn điều lệ của ngân hàng nhận chuyển giao bắt buộc.   Nên đẩy nhanh tiến độ   Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2024 vừa qua, ông Đỗ Việt Hùng - Thành viên Hội đồng quản trị Ngân hàng Vietcombank cho biết, nếu nhận chuyển giao ngân hàng yếu kém, Vietcombank sẽ được cấp hạn mức tăng trưởng tín dụng cao hơn, có quyền định đoạt, xử lý tổ chức chuyển giao bắt buộc, nếu tìm được tổ chức nước ngoài phù hợp, có thể bán tổ chức nhận chuyển giao, duy trì hoặc có phương án khác như chuyển đổi, cải cách (chẳng hạn như chuyển sang ngân hàng số). Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2024, lãnh đạo Ngân hàng MBBank (MB) cho biết, việc nhận chuyển giao bắt buộc một tổ chức tín dụng giúp MBBank có cơ hội để tăng trưởng quy mô cao hơn mức tăng trưởng bình quân thị trường khoảng 1,5 đến 2 lần trong dài hạn, cải thiện thứ hạng cạnh tranh và có nhiều không gian tăng trưởng mới. Đồng thời, việc tối ưu mạng lưới kênh phân phối của MB và tổ chức tín dụng được chuyển giao bắt buộc cùng với các điều kiện ưu tiên được phát triển mạng lưới trong tương lai sẽ giúp MB tiết kiệm thời gian và chi phí đầu tư, tăng độ bao phủ phục vụ khách hàng theo chiến lược bán lẻ và chuyển đổi số của MB. Trong thời gian thực hiện phương án chuyển giao bắt buộc, MB được xử lý phần vốn góp, xử lý cổ phần dưới các hình thức phù hợp hoặc sáp nhập theo phương án chuyển giao bắt buộc được phê duyệt, qua đó MB có cơ hội tạo giá trị thặng dư vốn và/ hoặc tăng quy mô cho MB. TS. Châu Đình Linh, giảng viên Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng, thông thường, một ngân hàng đang phát triển tốt không muốn nhận chuyển giao một ngân hàng yếu kém bởi lợi ích nhận được chưa rõ ràng, trong khi sự phức tạp và rủi ro của công tác quản trị thì được nhận diện rõ. Do đó, từ lúc mua lại các ngân hàng 0 đồng, phải mất 9 năm mới hoàn tất định giá, riêng quá trình định giá mất đến 2 năm. “Việc chuyển giao các ngân hàng yếu kém là cột mốc mới của tiến trình phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Số lượng ngân hàng được thu gọn hơn, nhưng chất lượng được cải thiện. Nỗ lực này cũng khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc xử lý các ngân hàng yếu kém, lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng theo hướng hiện đại, bền vững”, ông Linh nói. Ông Linh kiến nghị nên đẩy nhanh tiến độ định giá và tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, đồng thời, để ngăn phát sinh thêm các trường hợp rủi ro, cần kích hoạt chức năng giám sát tự động bằng công nghệ mới với công nghệ quản trị rủi ro hiện đại, kịp thời và hiệu quả, ngăn chặn các vụ việc đáng tiếc trước khi quá muộn. Bích Thủy