Chủ nhật, 9/11/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Chủ nhật, 9/11/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM HỘI NHẬP QUỐC TẾ, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC

Theo quan điểm của nhà kinh tế học P.Samuelson thì: "Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp với nhau để giành khách hàng, thị trường".

Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng là một loại doanh nghiệp đặc biệt sản phẩm vô hình, không tồn tại dưới dạng vật chất như các doanh nghiệp bình thường. Cạnh tranh được hiểu là một quá trình mà trong đó các doanh nghiệp đấu tranh, ganh đua nhau, tìm mọi biện pháp để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng tối đa, thông qua đó đạt được các mục tiêu kinh tế chủ yếu của mình như lợi nhuận, thị phần và vị thế kinh doanh. Như vậy, cạnh tranh được chủ thể thực hiện nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi ích, đối với doanh nghiệp đó là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng đó là sự thỏa mãn nhu cầu do tiêu dùng sản phẩm mang lại.

Khi khoa học công nghệ phát triển, sản phẩm ra đời ngày càng phong phú đa dạng, tạo thuận lợi cho sự lựa chọn của người tiêu dùng và đặt các doanh nghiệp trước áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt. Vì thế, việc nâng cao chất lượng sản phẩm hàm ý phải thỏa mãn cao nhất những yêu cầu đòi hỏi từ phía khách hàng. Theo quan niệm của khách hàng, một sản phẩm ngân hàng có chất lượng phải đáp ứng được tốt nhất, nhiều nhất nhu cầu mong muốn của khách hàng, đem lại cho khách hàng một tập hợp tiện ích và lợi ích. Do vậy, khi đánh giá một sản phẩm ngân hàng có chất lượng, khách hàng thường dựa vào các tiêu chí sau: Mức độ tham gia của khách hàng vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ít và đơn giản, tốc độ xử lý giao dịch nhanh, mức độ chính xác cao, hiệu quả mang lại cho khách hàng lớn, thái độ phục vụ tốt, trình độ công nghệ hiện đại.

Cạnh tranh bằng giá cả: Giá cả phản ánh giá trị của sản phẩm. Giá cả có vai trò quan trọng đối với quyết định của khách hàng. Đối với các NHTM, giá cả chính là lãi suất và mức phí áp dụng cho các sản phẩm,dịch vụ mà NHTM cung ứng cho các khách hàng.

Cạnh tranh bằng việc đa dạng hóa dịch vụ cung cấp: Để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của các khách hàng, các NHTM phải cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng đa dạng, độc đáo, tạo ra nét riêng biệt, tích cực nghiên cứu để đưa ra thị trường những sản phẩm dịch vụ mới với tính năng và tiện ích ưu việt hơn nhằm thay thế những sản phẩm hiện có. Nhờ đó, các NHTM có thể tạo ra và duy trì lợi thế của mình trong cạnh tranh, đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, giữ khách hàng cũ và thu hút thêm khách hàng mới.

Cạnh tranh bằng hệ thống phân phối: Tổ chức hoạt động tiêu thụ sản phẩm là khâu cuối cùng của quá trình kinh doanh. Tổ chức tiêu thụ sản phẩm là hình thức cạnh tranh phi giá cả gây được sự chú ý và thu hút khách hàng. Kênh phân phối là phương tiện trực tiếp đưa sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đến với khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng nắm bắt chính xác và kịp thời nhu cầu của khách hàng, qua đó chủ động cải tiến, hoàn thiện sản phẩm, dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi trong việc cung cấp sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Trước đây, các NHTM thường phát triển mạnh mẽ mạng lưới chi nhánh để mở rộng thị phần và gây sức ép lên đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, thời gian gần đây, các kênh phân phối hiện đại với ưu thế về nhiều mặt đang dần trở thành xu hướng chung được lựa chọn. Bao gồm:

+ Các chi nhánh tự động hóa hoàn toàn: Đặc điểm của kênh phân phối này là hoàn toàn do máy móc thực hiện dưới sự điều khiển của các thiết bị điện tử.

+ Chi nhánh ít nhân viên: Kiểu chi nhánh này có vị trí quan trọng trong hệ thống ngân hàng, nhất là đối với các chi nhánh lưu động. Ưu điểm của nó là chi phí thấp, hoạt động linh hoạt.

+ Ngân hàng điện tử (E_Banking): Hình thức phân phối này được thực hiện thông qua đường điện thoại hoặc máy vi tính. Nó cung cấp cho khách hàng rất nhiều tiện ích, tiết kiệm chi phí và thời gian, hoạt động được ở mọi lúc, mọi nơi. Các giao dịch được thực hiện thông qua các giao dịch điện tử bao gồm: Máy thanh toán tại điểm bán hàng, máy rút tiền tự động (ATM), ngân hàng qua điện thoại (Tel_Banking)...

+ Ngân hàng qua mạng: Gồm 2 loại: Ngân hàng qua mạng nội bộ và Ngân hàng qua mạng Internet.

Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan, xuất phát từ các lý do sau:

Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu thế thời đại và diễn ra mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Theo đó, song song với việc vươn ra thị trường thế giới, Việt Nam cũng phải mở cửa thị trường trong nước, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Trong bối cảnh chung đó, các NHTM Việt Nam phải chủ động nhận thức và sẵn sàng tham gia vào quá trình hội nhập và cạnh tranh vì khi đó thị trường trong nước không còn mức bảo hộ cao như trước, các ngân hàng sẽ phải cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu và cạnh tranh ngay tại sân nhà.

Thứ hai, sản xuất hàng hóa càng phát triển, hàng hóa bán ra càng nhiều, số lượng người cung cấp càng đông. Muốn tồn tại và phát triển thì buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau. Kết quả là một số doanh nghiệp bị thua cuộc và bị gạt ra khỏi thị trường, trong khi một số khác vẫn tồn tại và phát triển hơn nữa. Cạnh tranh diễn ra mọi lúc, mọi nơi không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của riêng ai nên cạnh tranh trở thành một quy luật quan trọng thúc đẩy sự phát triển. Mọi doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế, đều phải tự mình vận động để đứng được trong cơ chế này. Doanh nghiệp nào không thích nghi được sẽ cầm chắc sự phá sản và bị đào thải. sẵn sàng chấp nhận cạnh tranh và không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh là một vấn đề sống còn đối với mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh. Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập hiện nay, doanh nghiệp chỉ có thể phát triển được khi năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao.

Thứ ba, thực tế cho thấy, không một ngân hàng nào có khả năng thỏa mãn đầy đủ tất cả những yêu cầu của khách hàng. Thường thì một ngân hàng có lợi thế về mặt này và hạn chế về mặt khác. Các ngân hàng phải nhận biết được điều này để tăng cường khả năng cạnh tranh thông qua việc phát huy tốt những điểm mạnh mà mình đang có để đáp ứng tốt nhất những đòi hỏi của khách hàng. Có như vậy các ngân hàng mới có thể giữ vững và phát triển được thị phần, lợi nhuận trong điều kiện mở cửa thị trường, có sự tham gia ngày càng nhiều của các ngân hàng trong nước và nước ngoài.

Thứ  tư, một thực trạng phổ biến hiện nay là năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam còn nhiều hạn chế và yếu kém nên khả năng tồn tại và khẳng định vị thế trên thị trường (đặc biệt là thị trường quốc tế) chưa cao.

Từ những phân tích trên, cùng với tầm quan trọng và đặc điểm của ngành ngân hàng trong tiến trình phát triển kinh tế quốc dân, để có thể tận dụng tối đa các cơ hội, hạn chế thách thức, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM hiện nay là vấn đề tất yếu khách quan.

Hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng đồng nghĩa với việc từng bước thực hiện tự do hóa và mở rộng thị trường ngân hàng theo các cam kết quốc tế. Điều này đã và đang tạo ra cho các NHTM Việt Nam những cơ hội để phát triển nhưng cũng đặt ra không ít những thách thức khó khăn phải vượt qua.

Cơ hội

Thứ nhất, việc mở cửa và hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng ngoài việc cho phép các NHTM trong và ngoài nước được hoạt động kinh doanh, cạnh tranh và lớn mạnh trong một sân chơi công bằng và bình đẳng hơn còn tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM trong nước thâm nhập thị trường quốc tế và mở rộng hoạt động kinh doanh. Hội nhập còn đem lại cho ngành ngân hàng Việt Nam những cơ hội trao đổi, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hoạch định chính sách tài chính, tiền tệ, quản lý ngoại hối, thanh tra, giám sát phòng ngừa rủi ro và thanh toán, từ đó nâng cao vị thế và uy tín của các NHTM Việt Nam trong các giao dịch tài chính ngân hàng quốc tế, điều vốn là hạn chế của các NHTM Việt Nam hiện nay.

Thứ hai, sự tham gia thị trường của các NHTM nước ngoài không chỉ làm gia tăng mức độ cạnh tranh mà còn gia tăng sự lành mạnh và an toàn của toàn bộ hệ thống NHTM. Mặt khác, thông qua hội nhập, các NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận với vốn, công nghệ, kinh nghiệm và trình độ quản lý của các NHTM phát triển trên thế giới. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh và theo kịp yêu cầu phát triển của thị trường trong và ngoài nước, các NHTM trong nước phải chủ động thực hiện cơ cấu lại tổ chức theo hướng hợp lý và chuyên nghiệp hơn, tăng năng lực tài chính, thực hiện chuyên môn hóa sâu hơn các nghiệp vụ ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Đó là những điều kiện quan trọng để các NHTM Việt Nam hoạt động kinh doanh hiệu quả và đứng vững trong cạnh tranh.

Thứ ba, hội nhập sẽ tạo ra động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới và nâng cao tính minh bạch, tính tự chịu trách nhiệm của hệ thống NHTM Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của hội nhập và thực hiện các cam kết, qua đó nâng cao hiệu quả điều hành trong lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng.

Thứ tư, hội nhập sẽ giúp các NHTM Việt Nam có cơ hội tiếp cận và phát triển đa dạng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng mới hiện đại, mở rộng hoạt động kinh doanh đồng thời không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng để cạnh tranh tốt hơn. Đổi mới sẽ tạo ra động lực cho sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam.

Thứ năm, việc hội nhập cũng đòi hỏi môi trường pháp lý phải được cải thiện hơn để thực hiện các cam kết quốc tế, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, khuyến khích các luồng vốn chảy vào trong nước thông qua đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp nước ngoài, tạo cơ hội để các NHTM cho vay và huy động vốn lớn hơn.

 Thách thức

Mặc dù trong thời gian qua, hệ thống NHTM đã có những bước phát triển nhất định song khoảng cách giữa các NHTM trong nước và NHTM trong khu vực và trên thế giới vẫn còn rất lớn về mọi phương diện. Vì vậy, khi hội nhập, hệ thống NHTM Việt Nam cũng gặp phải những thách thức và sức ép không nhỏ.

Thứ nhất, các NHTM Việt Nam hiện nay có tiềm lực tài chính nhỏ bé, chất lượng tài sản thấp, danh mục sản phẩm dịch vụ còn nghèo nàn, chất lượng sản phẩm dịch vụ chưa cao, cơ cấu tổ chức chưa thực sự hợp lý và chưa chuyên nghiệp, trình độ quản lý điều hành còn thấp, công nghệ ngân hàng còn có khoảng cách đáng kể so với trình độ của khu vực và thế giới. Các NHTM Việt Nam hiện nay chỉ có lợi thế về mạng lưới chi nhánh phân phối sản phẩm dịch vụ và khách hàng rộng rãi, am hiểu về tập quán địa phương và môi trường kinh doanh. Tuy nhiên, đây không phải là những lợi thế lâu dài, mang tính quyết định và sẽ mất dần đi khi lĩnh vực ngân hàng thực sự tự do hóa hoàn toàn.

Thứ hai, hội nhập sẽ mang lại sự cạnh tranh gay gắt và khốc liệt trên thị trường ngân hàng Việt Nam. Các NHTM nước ngoài hiện chỉ nắm giữ thị phần thiểu số trên thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam nhưng sẽ có ưu thế gần như toàn diện trong tương lai khi mà các quy định hạn chế của Nhà nước Việt Nam đối với các NHTM và TCTD nước ngoài được nới lỏng dần để thực hiện cam kết mở cửa thị trường trong lĩnh vực ngân hàng.

Thứ ba, hội nhập kinh tế quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý chưa hoàn thiện, nhất là cơ chế thanh tra, giám sát, thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các NHTM Việt Nam. Nếu như năng lực quản lý và lập pháp không theo kịp và không lường trước được sự phát triển nhanh chóng của các giao dịch tài chính - ngân hàng, sẽ có 2 khả năng xảy ra: Hoặc là ngành ngân hàng mất khả năng kiểm soát dẫn tới khủng hoảng hoặc quốc gia sẽ tái áp dụng các hạn chế để duy trì kiểm soát. Cả 2 trường hợp này đều có hại cho sự phát triển của ngành ngân hàng.

Thứ tư, hội nhập đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải có một nguồn nhân lực không chỉ có chuyên môn cao về nghiệp vụ ngân hàng mà còn phải am hiểu Luật thương mại quốc tế và được trang bị đầy đủ những kiến thức và kỹ năng nghiên cứu, phân tích, đánh giá và dự báo theo mô hình và chuẩn mực quốc tế, trong khi nguồn nhân lực của các NHTM Việt Nam còn rất yếu kém về các kiến thức và kỹ năng trên. Đây là một khó khăn lớn cho các NHTM Việt Nam.

Thứ năm, khả năng kiểm soát tiền tệ còn nhiều hạn chế của NHNN Việt Nam trong điều kiện mở cửa thị trường tài chính ngân hàng cũng rất dễ gây ra những rủi ro hệ thống cho các NHTM Việt Nam. Để tránh được rủi ro này, công tác thanh tra, giám sát vĩ mô và giám sát từ xa của NHNN đòi hỏi phải có năng lực lớn và dựa trên tiêu chuẩn thanh tra, giám sát quốc tế, điều mà NHNN Việt Nam chưa có được.

Như vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra sức ép ngày càng lớn hơn cho hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam trong khi lợi thế tiềm tàng sẽ thuộc về các NHTM nước ngoài. Sự cạnh tranh không chỉ diễn ra ở nước ngoài mà còn diễn ra ngay tại thị trường trong nước, nơi mà NHTM Việt Nam vẫn có nhiều ưu thế nếu biết tận dụng những ưu thế đó. Để có thể nắm vững ưu thế, tận dụng cơ hội và tăng khả năng cạnh tranh, các NHTM Việt Nam cần phải biết vị trí của mình, phải đánh giá được năng lực cạnh tranh của mình dựa trên các chỉ tiêu đã đề cập, từ đó có những biện pháp cải thiện năng lực nội tại để nâng cao khả năng cạnh tranh của chính mình./.

 

Th.S Phạm Thái Hà

Lượt xem: 0

Sửa thuế thu nhập cá nhân - Trọng tâm và kỳ vọng

Việc sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân (ban hành từ năm 2007, có hiệu lực từ năm 2009) sau hơn 15 năm áp dụng là cần thiết để bắt kịp biến động thực tế và được toàn  xã hội mong đợi, với kỳ vọng không chỉ góp phần nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về thuế, mà còn hiện thức hóa chủ trương khoan sức dân, tạo động lực mới cho phong trào thi đua làm giàu, kích thích cả sản xuất và tiêu dùng, cả cung và cầu, góp phần cán đích tăng trưởng GDP 2 con số trong kỷ nguyên mới ở nước ta. Theo Bộ Tài chính, dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) dự kiến sửa đổi, bổ sung 30/35 điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành, theo đó: Tập trung sửa đổi, điều chỉnh và hoàn thiện các nội dung liên quan đến thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân và cách tính thuế đối với từng loại thu nhập chịu thuế; các khoản được miễn thuế thu nhập cá nhân; cách tính thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh; mức doanh thu chịu thuế đối với thu nhập của hộ, cá nhân kinh doanh; mức thuế suất đối với một số khoản thu nhập từ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ phần mềm; sản phẩm và dịch vụ nội dung thông tin số về giải trí, trò chơi điện tử, phim số, ảnh số, nhạc số, quảng cáo số…; mức giảm trừ khi tính thuế thu nhập cá nhân; giảm số bậc thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương tiền công; kỳ tính thuế, khấu trừ thuế, thời điểm xác định thunhập chịu thuế; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trả thu nhập và trách nhiệm của người nộp thuế. Đồng thời, bổ sung thêm quy định về nhóm thu nhập khác thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân; về miễn thuế, giảm thuế thu nhập cá nhân và về các khoản giảm trừ đặc thù khác. Ngoài ra, bổ sung thẩm quyền cho Chính phủ và Bộ Tài chính về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, ngưỡng doanh thu kinh doanh không phải nộp thuế thu nhập cá nhân; về phạm vi xác định các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được giảm trừ, các khoản giảm trừ đặc thù khác; về mức thu nhập thấp để xác định người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh và về mức tạm khấu trừ thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập vãng lai của cá nhân. Chính sách thuế thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản sẽ được chỉnh lý theo hướng sát với thực tế, minh bạch, công bằng hơn, đảm bảo đúng bản chất thu trên chênh lệch như mục tiêu ban đầu, ổn định thị trường và phù hợp thông lệ quốc tế. Cách tính thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng chứng khoán với thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng, thu theo từng lần giao dịch nhằm đơn giản hóa thủ tục và thuận tiện cho nhà đầu tư cá nhân, song không phù hợp với nhà đầu tư dài hạn hoặc có thu nhập biến động, đặc biệt khi phát sinh lỗ, nhưng không được hoàn thuế nếu không quyết toán. Theo đó, phương án cho phép cá nhân lựa chọn quyết toán vào cuối năm nhằm phản ánh đúng thu nhập thực tế, đảm bảo tính công bằng cũng được dự kiến. Trường hợp chia cổ tức bằng cổ phiếu, thuế thu nhập cá nhân không phát sinh tại thời điểm chia, mà sẽ được tính thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng khi cá nhân chuyển nhượng số cổ phiếu đó. Đặc biệt, các phương án điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cũng được cân nhắc có lợi hơn cho người dân và đảm bảo sự công bằng cho người nộp thuế, đồng thời tránh ảnh hưởng đột ngột đến nguồn thu ngân sách. Các cá nhân làm nội dung số, mạng xã hội được khấu trừ chi phí hợp lý tối đa 4 triệu đồng/tháng trước khi tính thuế nhằm phản ánh đúng chi phí thực tế phát sinh. Một nội dung được dư luận quan tâm nhất là đề  xuất của Bộ Tài chính giảm số bậc trong biểu thuế  thu nhập cá nhân xuống còn 5 bậc thay vì 7 bậc như quy định hiện hành và mức thuế suất cao nhất vẫn là 35%. Cụ thể, theo dự thảo, Bộ Tài chính đưa ra 2 phương án sửa đổi biểu thuế này theo hướng giảm số bậc và nới rộng khoảng cách thu nhập. Bộ Tài chính đưa ra 2 phương án sửa đổi biểu thuế thu nhập cá nhân Đối với cả 2 phương án được Bộ Tài chính đề xuất, mức thuế tối thiểu 5% tương ứng với thu nhập tính thuế trong tháng là 10 triệu đồng (sau khi giảm trừ gia cảnh, các chi phí tính thuế khác). Mức thuế tối đa là 35%, với thu nhập tính thuế trên 80 triệu đồng (phương án 1) và 100 triệu đồng trở lên (phương án 2). Việc thu hẹp số bậc thuế sẽ giúp đơn giản hóa trong quản lý, thu thuế, tạo thuận lợi cho kê khai và hội nhập xu hướng cải cách thuế trên thế giới. Đối với phương án 1, các cá nhân hiện nộp thuế từ bậc 2 trở lên sẽ được giảm thuế so với hiện nay; còn nếu kết hợp việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh thì cá nhân đang có thu nhập ở bậc 1 cũng đều được giảm thuế. Đối với phương án 2, cơ bản mọi cá nhân có thu nhập tính thuế từ 50 triệu đồng/tháng trở xuống sẽ được giảm thuế tương đương phương án 1. Đối với cá nhân có thu nhập tính thuế trên 50 triệu đồng/ tháng thì mức độ giảm sẽ nhiều hơn phương án 1, vì vậy số thu ngân sách nhà nước sẽ giảm nhiều hơn phương án 1. Trước hết, dư luận hoan nghênh việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân theo các mức lũy tiến từng phần là phù hợp xu hướng chung trên thế giới và việc giảm số bậc lũy tiến giúp đơn giản hóa biểu thuế. Hơn nữa, cũng cần thấy rằng, mức thuế cao nhất của Việt Nam chưa phải là mức cao trên thế giới. Trong khi đó, năm 2024, Phần Lan tăng thuế suất cao nhất từ 57% lên 57,3%; Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc có mức mức thuế suất cao nhất 45% và Philippines, Indonesia có mức 35%. Riêng số bậc thuế dao động từ 5 đến 13 bậc ở châu Á, còn ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Úc, phần lớn các quốc gia áp dụng từ 5 đến 6 bậc thuế. Như vậy, việc thực hiện theo 2 phương án đều đáp ứng được mục tiêu giảm bậc, điều chỉnh thu nhập tính thuế ở từng bậc, tuy nhiên, ảnh hưởng của 2 phương án là khác nhau. Đồng thời, tại dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân, Bộ Tài chính đề xuất 2 phương án. Phương án 1: Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo tốc độ tăng CPI theo quy định. Cụ thể: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 13,3 triệu đồng/tháng; Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 5,3 triệu đồng/tháng. Phương án 2: Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng GDP bình quân đầu người. Cụ thể: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 15,5 triệu đồng/tháng; Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 6,2 triệu đồng/tháng. Vấn đề mà dư luận hiện băn khoăn là tại sao chỉ có 2 phương án điều chỉnh được đề xuất gắn với mức trượt CPI (phương án 1) và mức gia tăng quy mô GDP/người (phương án 2), khiến mức ngưỡng chịu thuế và giảm trừ gia cảnh vẫn lạc hậu so với thực tiễn hiện nay. Năm 2020, mức lương cơ sở ở mức 1,49 triệu đồng/tháng. Hiện nay, mức lương này đã tăng lên 2,34 triệu đồng - tức tăng hơn 57% - nhưng mức giảm trừ gia cảnh vẫn giữ nguyên ở mức cũ. Điều này khiến không ít người lao động cảm thấy thiệt thòi. Đồng thời, khoảng cách giữa các bậc thuế rất gần tạo ra tâm lý lo ngại về việc mức thuế phải nộp tăng cao. Điều này cũng khiến cho việc tính thuế trở nên khó khăn, phức tạp hơn đối với cả người nộp thuế và cơ quan thuế. Chính những yếu tố đó dẫn đến tâm lý e ngại, thậm chí có xu hướng trốn thuế ở một bộ phận người nộp thuế, do cảm thấy không được khuyến khích phấn đấu thu nhập. Hiện nay, mức thu nhập chịu thuế sau giảm trừ là 11 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, một số địa phương như Hà Tĩnh, Ninh Thuận đã đề xuất nâng mức này lên 16 đến 18 triệu, thậm chí 20 đến 25 triệu đồng/tháng, với lý do phản ánh sát hơn chi phí sinh hoạt thực tế. Thực tế tại các đô thị lớn cho thấy, với mức thu nhập 11 triệu đồng/tháng - là ngưỡng chịu thuế hiện nay - nhiều người dân cho biết thu nhập này hầu như chỉ đủ chi trả tiền thuê nhà và học phí cho con. Việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo chỉ số CPI hay theo thu nhập bình quân đầu người đều có lý do riêng từ phía cơ quan chức năng. Tuy nhiên, câu hỏi khác đặt ra là tại sao không có phương án 3, trong đó có mức ngưỡng chịu thuế mới và mức chiết trừ gia cảnh được tính toán dựa vào cả 2 mức trượt CPI và mức gia tăng quy mô GDP/người. Nói cách khác, khi cơ quan chức năng dựa trên cơ sở dữ liệu về thu nhập và người nộp thuế, cũng như xác định đúng mức sống tối thiểu thực tế làm căn cứ giúp chính sách thuế được xây dựng chính xác và công bằng hơn, đưa thêm phương án 3 xử lý tất cả những vướng mắc mà người dân băn khoăn, cũng như bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước và người dân, xã hội; nỗ lực hướng tới mục tiêu cao nhất của công cuộc Đổi mới, phát triển và hội nhập trong Kỷ nguyên vươn mình là lấy hạnh phúc của người dân là thước đo thành tựu năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, lấy con người là động lực và mục tiêu cao nhất của toàn bộ quá trình phát triển đất nước… Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc tại cuộc họp chiều ngày 31/7 với các bộ, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp chứng khoán, bất động sản, việc sửa đổi dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân lần này phải đảm bảo đúng quy định pháp luật hiện hành, công bằng, hiệu quả, phù hợp, minh bạch trong áp dụng thực tiễn… Dư luận quan tâm và kỳ vọng, dự thảo Luật cần cân nhắc và đánh giá kỹ lưỡng tác động khi thiết kế các nội dung liên quan mức thuế và lộ trình tính thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản và chứng khoán (cổ phiếu, cổ tức, cổ phiếu thưởng) và mức giảm trừ gia cảnh cho phù hợp với mức sống của người dân và từng địa phương, cũng như để phát triển thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán lành mạnh. Khi người dân “tâm phục khẩu phục”, đồng thuận và đoàn kết xã hội cao, thì mọi việc quốc kế dân sinh sẽ không còn là khó khăn, các giá trị xã hội chuẩn chung sẽ được củng cố và lợi ích quốc gia sẽ được bảo vệ vững chắc. Tác giả: TS Nguyễn Minh Phong, Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên truyền lý luận, Báo Nhân dân (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)

Cần một chiến lược tổng thể kết nối với các mục tiêu kinh tế xã hội

Việt Nam đã có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ khoảng 650 nghìn tỷ đồng. Trong đó, tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%... Quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng xanh tăng trưởng khá qua các năm Theo Hiệp hội thị trường tín dụng (Loan market Association) và Hiệp hội thị trường Tín dụng châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Loan Market Association), tín dụng xanh là những khoản tín dụng nhằm hỗ trợ các dự án sản xuất, kinh doanh không/ít gây rủi ro tới môi trường, góp phần bảo vệ sinh thái chung, là biểu hiện của nền tài chính hướng đến sự phát triển bền vững. Danh mục xanh bao gồm: Năng lượng tái tạo; sử dụng năng lượng hiệu quả; giao thông xanh; sản phẩm, các công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường và/hoặc thích nghi với nền kinh tế; quản lý nước bền vững và xử lý nước thải; tòa nhà xanh; nông lâm nghiệp bền vững; ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm. Tại Việt Nam, để hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh nói chung và mở rộng hoạt động tín dụng xanh nói riêng, Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương ban hành nhiều văn bản theo hướng không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý chung để bộ ngành, địa phương, ngành nghề triển khai nhằm tiến tới mục tiêu Net Zero năm 2050. Trong đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định, tín dụng xanh được cấp cho các dự án đầu tư: Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu; quản lí chất thải; xử lí ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường; phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; tạo ra lợi ích khác về môi trường. Thực hiện Nghị quyết của Đảng, chủ trương của Chính phủ trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động và sáng tạo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về tiền tệ, tín dụng ngân hàng nói chung, nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, đối phó với tác động tiêu cực của thiên tai, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, phát triển kinh tế tuần hoàn. Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, phát triển nền tảng số, hạ tầng số, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số để phục vụ phát triển kinh tế số, xã hội số, góp phần phát triển bền vững. Theo Ngân hàng Nhà nước, trong giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Nếu năm 2018, quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với lĩnh vực kinh tế xanh chỉ chiếm 3,33% trong tổng tín dụng của nền kinh tế, đến năm 2022 tăng lên 4,2%. Thời điểm tháng 6/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đạt gần 528.300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với toàn bộ nền kinh tế. Đến nay, dư nợ tín dụng xanh khoảng 650 nghìn tỷ đồng, trong đó tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%... Bên cạnh đó, giai đoạn năm 2016-2020, Việt Nam đã có 4 đợt phát hành trái phiếu xanh, giá trị 284 triệu USD. Giai đoạn năm 2019-2024, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Nhiều tổ chức tín dụng đã ban hành quy định nội bộ về rủi ro môi trường và tác động xã hội; 80% đến 90% các ngân hàng thương mại đã áp dụng một phần hoặc toàn bộ chỉ số đánh giá môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trong hoạt động. Thực tiễn hoạt động tín dụng xanh đã được một số ngân hàng đưa vào áp dụng, triển khai và đã đạt được những kết quả khả quan. Theo đó, nhiều ngân hàng như BIDV, Vietcombank, VietinBank, MB đạt tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân lên tới 45%/năm. Hay như SeABank đã được nhiều tập đoàn/tổ chức tài chính quốc tế như IFC, DFC và nhiều quỹ đầu tư quốc tế tài trợ vốn lên tới gần 600 triệu USD để triển khai các chương trình tín dụng xanh, hỗ trợ các hoạt động kinh doanh thuộc các ngành, lĩnh vực thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai nhằm thúc đẩy tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đang gặp một số khó khăn. Theo ThS. Dương Văn Bôn, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam chưa có quy định chung về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành, các lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế, làm căn cứ để các tổ chức tín dụng xác định cấp tín dụng xanh cho giai đoạn tới. Khung pháp lý về tín dụng xanh của Việt Nam chưa hoàn thiện, gây ra khó khăn trong việc phát triển hoạt động này trên thực tiễn. Nhiều văn bản pháp lý đang được ban hành về tín dụng xanh, ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước còn chung chung. Nội dung cụ thể về ngân hàng xanh, tín dụng xanh về cơ bản mới chỉ mang tính chất định hướng, khuyến khích các tổ chức tín dụng thực hiện, mà chưa mang tính bắt buộc. Việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kỹ thuật về môi trường chuyên sâu sẽ là khó khăn cho cán bộ tín dụng của các tổ chức tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng. Đặc biệt là khách hàng trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, với dự án đi vào hoạt động trong thời gian chưa dài, hiệu quả phụ thuộc nhiều vào hợp đồng mẫu. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc giám sát và quản lý rủi ro khi thực hiện cấp tín dụng xanh do còn thiếu cơ sở pháp lý, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường. TS. Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đánh giá, mặc dù đã có những tín hiệu tích cực trong tăng trưởng tín dụng xanh, ngân hàng xanh, song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Việc phát triển hoạt động ngân hàng xanh tại các tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập do cần nguồn lực rất lớn để triển khai; kiến thức, kinh nghiệm của các cán bộ ngân hàng thực hiện công tác thẩm định và phê duyệt cấp tín dụng liên quan các vấn đề môi trường xã hội nhìn chung còn hạn chế. Một số ngân hàng rất chủ động, tiên phong nhưng số khác lại rất chậm. Về phía các doanh nghiệp, trong quá trình tiếp cận tài chính xanh, các doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu thông tin về các đơn vị cấp tín dụng xanh; các quỹ tín dụng xanh thường không chấp nhận tài sản bảo đảm, doanh nghiệp cần có bảo lãnh ngân hàng; các dự án quy mô nhỏ khó tiếp cận vốn vay nước ngoài… Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, đối với tín dụng xanh, hiện Ngân hàng Nhà nước gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do hệ thống ngân hàng cần được hướng dẫn của các cơ quan, bộ ngành liên quan đến danh mục phân loại xanh để các tổ chức tín dụng có căn cứ khi cấp tín dụng. Bên cạnh đó, đầu tư vào những lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch… đòi hỏi nguồn vốn với giá trị rất lớn và kì hạn dài. Đây chính là những khó khăn của hệ thống ngân hàng khi nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng rất ngắn hạn. Việt Nam là nước chịu tác động lớn bởi biến đổi khí hậu, tình hình bão lũ thiên tai vừa qua đặt ra yêu cầu cho các cơ quan, bộ ngành phải tập trung rà soát những giải pháp để ứng phó hiệu quả. Ngành ngân hàng đã ban hành rất nhiều các văn bản hướng dẫn để đánh giá về rủi ro và môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Tuy nhiên, việc chưa có danh mục về phân loại xanh khiến Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn. Do đó, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục quan tâm thực hiện triển khai theo đúng kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt, khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục phân loại xanh, Ngân hàng Nhà nước sẽ hướng dẫn các tổ chức tín dụng cấp tín dụng xanh và theo dõi thực hiện, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh. Việt Nam đặt mục tiêu cuối năm 2025 tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh đạt 25% so với hiện nay; đạt 30% đến 35%/năm cho giai đoạn năm 2025-2030. Tương ứng tỷ lệ trên là mục tiêu tỷ trọng tín dụng xanh trong nền kinh tế từ 4,6% tăng lên 10% vào cuối 2025 và 20% vào cuối năm 2030. Đây là những thách thức rất lớn, mục tiêu khó khăn đối với ngành ngân hàng. Tại diễn đàn Tài chính xanh năm 2024, Phó Giám đốc Ban kinh doanh vốn và tiền tệ Ngân hàng BIDV Nguyễn Bá Sơn khuyến nghị, cần sớm ban hành quy định phân loại và xác nhận dự án xanh, xem xét sự tương đồng giữa các tiêu chí xanh của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế; các chính sách ưu đãi để thu hút nhà đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực về môi trường và xây dựng hệ thống dữ liệu về môi trường. Cùng với đó, doanh nghiệp cần được nâng cao nhận thức và khuyến khích thực hiện chuyển đổi xanh; duy trì, mở rộng các cơ chế hỗ trợ chi phí phát hành, tư vấn kỹ thuật và khuyến khích các doanh nghiệp đầu ngành tiên phong phát hành chứng khoán xanh. Các chuyên gia cho rằng, để phát triển tín dụng xanh, trước tiên là phải hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng các tiêu chí xác định dự án xanh. Đây là cơ sở để các tổ chức tín dụng làm căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh cho các dự án. Tiếp đó, Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh một cách hài hòa, hiệu quả giữa các kênh dẫn vốn, gắn với các định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; có cơ chế thu hút nguồn vốn cho đầu tư xanh bằng chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí, lãi suất và hỗ trợ các chi phí liên quan đến phát hành trái phiếu xanh, cung cấp tín dụng xanh. Các chính sách liên quan đến thị trường tài chính xanh cần sớm được ban hành hoặc lồng ghép với những chính sách về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng và ứng phó biển đổi khí hậu… (Theo Tạp Chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán Số 205 - tháng 11/2024).

CHỦ ĐỘNG SỬ DỤNG VÀ ỨNG PHÓ VỚI PHÒNG VỆ THƯƠNG MẠI

1. Xu hướng sử dụng và hệ lụy của sử dụng phòng vệ thương mại Cùng với xu hướng tự do hóa thương mại, trong những năm gần đây, xu thế bảo hộ thông qua sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cũng đang diễn biến theo nhiều cách thức, mức độ khác nhau, kể cả tại một số nền kinh tế lớn. Về nguyên tắc, để bảo hộ mậu dịch, các nước có thể dùng phối hợp các công cụ bảo hộ thuế quan và phi thuế quan. Chúng có thể có nhiều hình thức, bao gồm: Thuế và các hàng rào phi thuế quan. Nhưng xu hướng hiện nay là ngày càng giảm các hàng rào thuế quan và gia tăng các công cụ phi thuế quan, bao gồm: cấm nhập khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; giấy phép nhập khẩu; giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp, tự nguyện hạn chế xuất khẩu, yêu cầu nội địa hóa, lệnh cấm vận, giá nhập khẩu tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, giá xuất khẩu tối thiểu và giá hành chính; các yêu cầu thanh toán trước; tiền gửi nhập khẩu trước; yêu cầu giới hạn tiền mặt; trả trước thuế hải quan; tỷ giá hối đoái đa dạng; quản lý ngoại hối; thuế nội địa đối với nhập khẩu (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng); biện pháp về hành chính kĩ thuật (bao gồm hình thức hàng đổi hàng, đặt cọc, thủ tục hải quan, mua sắm chính phủ, quy tắc xuất xứ, chất lượng, an toàn hoặc kích thước, kí hiệu, thử nghiệm và các phương pháp thử nghiệm, đóng gói, đóng dấu, và các yêu cầu dán nhãn cho một sản phẩm)…   Các biện pháp phòng vệ thương mại là tên gọi chung của ba nhóm biện pháp: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Các biện pháp này được ghi nhận cả trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và trong các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực được các quốc gia trên thế giới ký kết. Theo đó, các quốc gia có quyền tăng thuế nhập khẩu hoặc áp dụng một số biện pháp hạn chế nhập khẩu phù hợp, nếu xác định rằng việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu là nguyên nhân gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Để đi đến quyết định áp dụng một biện pháp phòng vệ thương mại, các hiệp định của WTO quy định nước nhập khẩu phải tiến hành một quy trình điều tra, phân tích trên cơ sở thu thập thông tin từ các bên liên quan, trong đó có thông tin từ các doanh nghiệp sản xuất trong nước, doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu của nước ngoài và doanh nghiệp nhập khẩu. Quy trình điều tra này có thể kéo dài từ 12 đến 18 tháng. Nếu các phân tích cho thấy các điều kiện áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại được đáp ứng, nước nhập khẩu mới có thể đưa ra quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại. Tại Việt Nam, quy trình điều tra này được cụ thể hóa trong Luật Quản lý ngoại thương, Nghị định số 10/2018/NĐ-CP và các văn bản pháp lý liên quan. Mặt khác, để bảo đảm hiệu quả của các biện pháp phòng vệ thương mại, các quốc gia áp dụng biện pháp cũng tích cực giám sát, theo dõi sự biến động của luồng hàng hóa nhập khẩu để phát hiện các hành vi gian lận nhằm lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Trong trường hợp phát hiện hành vi gian lận, nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại có thể điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại để mở rộng áp dụng phạm vi áp dụng cho hàng hóa tương tự của quốc gia mà tại đó hành vi gian lận xảy ra, gây ảnh hưởng liên đới tới các doanh nghiệp xuất khẩu chân chính. Nghiên cứu mới đây của WTO cho thấy, thời gian qua, các biện pháp hạn chế/bảo hộ thương mại được các thành viên WTO áp dụng đã gia tăng một cách kỷ lục. Kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008, thế giới đã có thêm 4.000 biện pháp bảo hộ thương mại mới được áp dụng gồm: Biện pháp phòng vệ thương mại, tăng thuế, rào cản địa phương, trợ cấp phí xuất khẩu, và các phân biệt đối xử. Năm 2016, các nước thành viên WTO đã điều tra 345 vụ phòng vệ thương mại, tăng 24,5% so với năm 2015, với 300 vụ chống bán phá giá, 34 vụ chống trợ cấp và 11 vụ việc điều tra tự vệ. Riêng trong giai đoạn từ tháng 10/2018 đến tháng 10/2019, tổng giá trị thương mại bị ảnh hưởng do việc áp dụng các biện pháp này dự tính khoảng 747 tỷ USD. Trong số hơn 2.800 biện pháp hạn chế thương mại ghi nhận qua các thời kỳ kiểm tra chính sách thương mại từ tháng 10/2008 đến nay, mới chỉ có 25% đã được bãi bỏ. Tại Mỹ, để bảo vệ lợi ích của mình, nước này đang áp dụng 80% trong số 31.000 biện pháp “bảo hộ mậu dịch” trên thế giới hiện nay. Việc bảo hộ mậu dịch có tác động hai mặt: Một mặt, bảo hộ đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong nước và khuyến khích phát triển một số ngành nghề; hạn chế tiêu dùng; bảo đảm an toàn sức khỏe con người, động thực vật, môi trường, cân bằng cán cân thanh toán và đảm bảo an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước; tăng việc làm mới và phân phối lại thu nhập… Mặt khác, bảo hộ làm cho các nhà sản xuất trong nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng (hay cung cấp dịch vụ) ở mức có lợi nhất cho họ; giảm động lực áp dụng các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, ảnh hưởng đến sự phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế xét theo mục tiêu dài hạn. Các hàng rào phi thuế quan đôi khi cũng làm nhiễu tín hiệu của thị trường mà người sản xuất dựa vào đó để ra quyết định. Tín hiệu này chính là giá thị trường. Khi bị làm sai lệch, nó sẽ phản ánh không trung thực lợi thế cạnh tranh thật sự chỉ dẫn sai việc phân bổ nguồn lực trong nội bộ nền kinh tế. Do đó, khả năng xây dựng kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh hiệu quả trong trung và dài hạn của người sản xuất bị hạn chế. Không những thế, các hàng rào phi thuế quan thường đòi hỏi chi phí của Nhà nước để duy trì hệ thống điều hành kiểm soát thương mại phi thuế quan. Việc sử dụng các hàng rào phi thuế quan nhằm hạn chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước hầu như không đem lại nguồn thu tài chính trực tiếp nào cho Nhà nước, mà thường chỉ làm lợi cho một số doanh nghiệp hoặc ngành nhất định được bảo hộ hoặc được hưởng ưu đãi đặc quyền như được phân bổ hạn ngạch, được chỉ định làm đầu mối nhập khẩu. Điều này còn dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nội bộ nền kinh tế. 2. Thực tế ứng phó và sử dụng các công cụ phòng vệ thương mại ở Việt Nam Việt Nam hiện đã có quan hệ thương mại tự do với 60 đối tác thương mại thông qua việc ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA thế hệ mới như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định FTA với Liên minh châu Âu (EVFTA). Đối với hàng hóa nội địa, mức cắt giảm thuế quan hầu hết về 0% đã đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có độ mở cửa cao nhất trên thế giới. Tuy nhiên, quá trình mở cửa, dù theo lộ trình, với các đối tác thương mại lớn có thể làm cho một số ngành sản xuất trong nước không thích ứng kịp với diễn biến cạnh tranh phức tạp, thậm chí không lành mạnh (như bán phá giá, nhận trợ cấp) của hàng hóa nhập khẩu từ nước ngoài. Đồng thời, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng bị các nước áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại với tần suất cao. Các vụ kiện này không chỉ diễn ra với hàng hóa có thế mạnh xuất khẩu mà với ngay cả các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu thấp. Việc này có thể gây ảnh hưởng tiêu cực trực tiếp tới các ngành sản xuất, xuất khẩu và gián tiếp đặt ra các gánh nặng về kinh tế, xã hội. Cùng với sự tăng trưởng của kim ngạch xuất khẩu trong thời gian qua, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam cũng ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với các vụ việc điều tra, áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại của nước ngoài. Theo VCCI, tính đến tháng 10/2015, đã có hơn 94 vụ kiện chống bán phá giá, kiện chống trợ cấp, kiện tự vệ đối với hàng hóa và doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường nước ngoài. Theo thống kê của Bộ Công Thương, tính hết năm 2018, đã có 144 vụ phòng vệ thương mại do 18 quốc gia và vùng lãnh thổ khởi xướng điều tra, áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam. Đặc biệt, số liệu 3 năm gần đây cho thấy số lượng điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hàng hoá xuất khẩu Việt Nam đang tăng nhanh, cụ thể: Theo Bộ Công Thương, tính đến hết tháng 12/2021, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam là đối tượng của 209 vụ việc điều tra liên quan đến phòng vệ thương mại. Riêng trong năm 2021 có 08 vụ việc mới do nước ngoài khởi xướng, bên cạnh nhiều vụ việc cũ đang tiếp tục được điều tra và các vụ việc rà soát hằng năm, rà soát cuối kỳ.  Các con số tương tự đến hết năm 2022 là 226 vụ việc điều tra và 17 vụ việc mới; đến hết năm 2023 là 242 vụ và 15 vụ việc mới. Tính đến tháng 6/2024 hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đối mặt với 252 vụ việc điều tra phòng vệ thương mại từ 24 thị trường và vùng lãnh thổ. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia thường xuyên sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại. Theo thống kê của WTO, tính đến hết tháng 12/2022, Hoa Kỳ đã điều tra 53 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, chiếm khoảng 25% tổng số vụ việc nước ngoài điều tra với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2022, Hoa Kỳ đã khởi xướng điều tra mới 12 vụ việc, trong đó chủ yếu là điều tra chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại (11 vụ). Các mặt hàng bị điều tra gồm các sản phẩm thép, pin năng lượng mặt trời, tủ gỗ, ghim dập, thép dây... Ngoài ra, Hoa Kỳ cũng tiến hành rà soát một số biện pháp phòng vệ thương mại đã áp dụng trước đó, như rà soát hành chính thuế chống trợ cấp với lốp xe, rà soát hành chính thuế chống bán phá giá với cá tra, cá basa. Nguyên nhân của việc gia tăng số lượng các vụ điều tra phòng vệ thương mại đối với hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam gắn với hệ quả của quá trình đẩy nhanh tự do hoá thương mại của Việt Nam với thế giới và cả xu thế bảo hộ thương mại khi xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc bùng nổ. Bởi lẽ, để bảo đảm hiệu quả của các biện pháp phòng vệ thương mại, các quốc gia áp dụng biện pháp cũng tích cực giám sát, theo dõi sự biến động của luồng hàng hóa nhập khẩu để phát hiện các hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Trong trường hợp phát hiện hành vi lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại, nước áp dụng biện pháp có xu hướng tiến hành các cuộc điều tra lẩn tránh để mở rộng phạm vi áp dụng đến hàng hóa tương tự của quốc gia mà tại đó hành vi lẩn tránh xảy ra, gây ảnh hưởng liên đới tới các doanh nghiệp xuất khẩu chân chính. Các vụ việc mà Hoa Kỳ nhắm vào hàng hóa của Trung Quốc nghi ngờ chuyển tải qua nước thứ ba, trong đó có Việt Nam, để lẩn tránh các mức thuế cao do Hoa Kỳ áp dụng là ví dụ điển hình. Mặc dù nguyên nhân lớn nhất của việc gia tăng các vụ việc điều tra chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại là xu thế bảo hộ thương mại, còn có các nguyên nhân khác như sự thiếu kiến thức về pháp luật phòng vệ thương mại nói chung cũng như pháp luật về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại nói riêng của các doanh nghiệp Việt Nam, thiếu thông tin về các vụ việc phòng vệ thương mại đang áp dụng, chạy theo lợi nhuận trước mắt... Bên cạnh đó, có thể có một số doanh nghiệp cá biệt lợi dụng chính sách đầu tư, chính sách thuận lợi hóa thương mại đối với các mặt hàng xuất khẩu để thực hiện các hành vi gian lận thương mại. Xu hướng mới trong bảo hộ thương mại của các nước có thể sẽ khiến trong tương lai gần hàng hóa Việt Nam xuất khẩu (như vào Hoa Kỳ) được lợi thế về giá; tuy vậy, có thể  thúc đẩy việc lợi dụng và giả mạo xuất xứ Việt Nam, kéo theo việc Việt Nam bị lôi kéo vào cuộc chiến và bị áp dụng các biện pháp thuế quan đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam… Các vụ kiện chống bán phá giá cá tra - basa, tôm, chống lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại đối với thép cuộn, thép chống ăn mòn do Mỹ khởi xướng; chống trợ cấp dây đồng, ống thép không gỉ do Ấn Độ khởi xướng; biện pháp tự vệ với thép nhập khẩu vào EU... khiến Việt Nam gặp khó khăn trên thị trường quốc tế. Để giảm thiểu số lượng vụ việc hàng hóa Việt Nam bị điều tra lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại cũng như tác động tiêu cực mà các vụ việc này gây ra đối với hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, các cơ quan quản lý cần có các biện pháp tổng thể và lâu dài; trước mắt, tập trung vào ngăn chặn hiện tượng Việt Nam bị lợi dụng làm điểm trung chuyển để xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba, đặc biệt tránh bị rơi vào hệ lụy của xung đột thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc, bảo vệ uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, hướng tới xuất khẩu bền vững; đồng thời, giảm thiểu tình trạng các doanh nghiệp đầu tư không thực chất, chỉ thực hiện các giai đoạn gia công đơn giản, không mang lại giá trị gia tăng đáng kể vào Việt Nam; tiếp tục quá trình đổi mới toàn diện, đẩy mạnh chủ động hội nhập quốc tế và bảo đảm thực thi có hiệu quả cam kết của các FTA mà Việt Nam đang và sẽ tham gia. Đồng thời, Việt Nam cũng cần đa dạng hóa thị trường, chủ động nhận diện, thông tin và hỗ trợ doanh nghiệp đủ năng lực vượt qua các hàng rào kỹ thuật từ các đối tác xuất khẩu; cũng như, nhận thức đúng đắn và coi trọng xây dựng hàng rào kỹ thuật bảo vệ thị trường và lợi ích quốc gia, cộng đồng doanh nghiệp nội địa; tăng cường năng lực đối phó với những vụ kiện phòng vệ thương mại, đồng thời, linh hoạt sử dụng các biện pháp tự vệ, chống bán phá giá và chống bán trợ giá để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các nhà sản xuất trong nước, phổ biến rộng rãi cho các doanh nghiệp biết và vận dụng… Ngày 04/7/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 824/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ. Ngày 31/12/2019, Chính phủ cũng đã ban hành Nghị quyết số 119/NQ-CP về một số biện pháp cấp bách nhằm tăng cường quản lý nhà nước về phòng chống gian lận xuất xứ, chuyển tải hàng hóa bất hợp pháp. Thực hiện các chủ trương nói trên, thời gian qua, các đơn vị liên quan trong và ngoài Bộ Công Thương đã chủ động rà soát, xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan. Trong năm 2022, Bộ Công Thương đã phối hợp cùng với các Bộ, ngành liên quan triển khai có hệ thống hàng loạt các hoạt động, như cảnh báo sớm các mặt hàng có nguy cơ bị nước ngoài điều tra phòng vệ thương mại; hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu xử lý ứng phó với các vụ việc phòng vệ thương mại cụ thể; tham gia cung cung cấp, giải trình các chính sách của Chính phủ bị cáo buộc trợ cấp; tham gia phản biện pháp lý đối với các vi phạm, khả năng vi phạm cam kết quốc tế của cơ quan điều tra nước ngoài; tiến hành các hoạt động giải quyết tranh chấp tại WTO; thực hiện các hoạt động hợp tác quốc tế để góp phần nâng cao năng lực phòng vệ thương mại. Trên cơ sở danh sách cảnh báo, các cơ quan chức năng của Bộ Công Thương, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công an, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã phối hợp, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, xác minh việc cấp giấy chứng nhận xuất xứ, khai báo xuất xứ khi thông quan, đăng ký đầu tư nước ngoài... Đồng thời, các Hiệp hội, doanh nghiệp liên quan có thể chủ động xây dựng chiến lược sản xuất, xuất khẩu, chuẩn bị nguồn lực, xây dựng kế hoạch ứng phó trong trường hợp vụ việc xảy ra. Bộ Công Thương cũng đã phối hợp với Tổng cục Hải quan và cơ quan điều tra nước ngoài làm rõ các cáo buộc lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; tăng cường hợp tác, chia sẻ thông tin nhằm chống lẩn tránh phòng vệ thương mại, gian lận xuất xứ, chuyển tải bất hợp pháp, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại; đưa ra các khuyến nghị cho doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu nhằm tránh bị các nước khác điều tra phòng vệ thương mại, lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại. Các nỗ lực của Việt Nam đã được một số đối tác ghi nhận và đánh giá cao. Trong năm 2023, Bộ Công Thương tiếp tục triển khai các nhiệm vụ được giao tại Quyết định số 316/QĐ-TTg ngày 01/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng và vận hành hiệu quả hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại” và Quyết định số 824/QĐ-TTg ngày 04/7/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tăng cường quản lý nhà nước về chống lẩn tránh biện pháp phòng vệ thương mại và gian lận xuất xứ” nhằm đưa ra những dự báo từ sớm, từ xa những mặt hàng xuất khẩu có nguy cơ bị nước ngoài tiến hành điều tra phòng vệ thương mại. Trên cơ sở những dự báo này, các ngành sản xuất trong nước có thêm thời gian chuẩn bị và chủ động hơn trong việc hợp tác với các cơ quan điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài, từ đó, bảo vệ được quyền và lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp, hạn chế và giảm đáng kể những tác động tiêu cực của các biện pháp phòng vệ thương mại mà nước ngoài áp dụng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. Bên cạnh đó, đến hết năm 2023, Việt Nam đã tiến hành điều tra tổng cộng 27 vụ việc phòng vệ thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam, trong đó có 18 vụ việc chống bán phá giá, 01 vụ việc chống trợ cấp, 06 vụ việc tự vệ và 02 vụ việc chống lẩn tránh. Trong năm 2023, Bộ Công Thương tiếp nhận và xử lý 05 hồ sơ đề nghị điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá của ngành sản xuất trong nước, trong đó đã ban hành quyết định khởi xướng điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá với 02 vụ việc, đối với 03 hồ sơ còn lại, Bộ Công Thương đang tiếp tục đề nghị ngành sản xuất trong nước hoàn thiện hồ sơ theo đúng quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Bộ Công Thương đã hoàn thành rà soát với 07 vụ việc và triển khai điều tra, rà soát với 04 vụ việc rà soát các biện pháp phòng vệ thương mại đang được áp dụng theo quy định để đảm bảo các biện pháp được áp dụng đúng đối tượng, đúng mức độ và đúng điều kiện, trong đó có 04 vụ việc rà soát nhà xuất khẩu mới, 04 vụ việc rà soát hằng năm và 03 vụ việc rà soát cuối kỳ. Bộ Công Thương cũng theo dõi sát diễn biến giá cũng như tình hình nhập khẩu và rà soát định kỳ để điều chỉnh biện pháp phòng vệ thương mại cho phù hợp thực tiễn, tránh hiện tượng hàng hóa tăng giá do phòng vệ thương mại hay giảm động lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp của các cơ quan chức năng trong quá trình xử lý các vụ việc điều tra phòng vệ thương mại của nước ngoài đã đem lại những kết quả tích cực trong việc chứng minh doanh nghiệp không bán phá giá hay Chính phủ không trợ cấp, không can thiệp vào thị trường để tạo lợi thế bất bình đẳng cho doanh nghiệp xuất khẩu sang các thị trường như Hoa Kỳ, Canada, Australia, Ấn Độ, Malaysia, Indonesia… Theo tính toán, những ngành sản xuất đang được bảo vệ bởi các biện pháp phòng vệ thương mại ước tính đóng góp khoảng 6,3% GDP của cả nước. Nhờ đó, các doanh nghiệp xuất khẩu không bị áp thuế phòng vệ thương mại hoặc bị áp thuế ở mức thấp, góp phần giữ vững và mở rộng thị trường xuất khẩu. Các biện pháp phòng vệ thương mại đã và đang áp dụng góp phần bảo vệ công ăn việc làm của hàng trăm nghìn người lao động trong các lĩnh vực, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển và hỗ trợ cân bằng cán cân thanh toán quốc tế; góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước hàng nghìn tỉ đồng; giảm bớt quy mô nhập khẩu và cải thiện đáng kể tình hình sản xuất kinh doanh, góp phần ổn định giá đầu vào cho một số ngành sản xuất trong nước. Về triển vọng, điểm cần nhấn mạnh là Việt Nam cần chú ý chủ động và hài hoà hơn giữa đối phó với các biện pháp phòng vệ thuơng mại quốc tế, với sử dụng hợp lý, hiệu quả các công cụ phòng vệ thương mại hợp pháp trong khuôn khổ WTO và các FTA mà Việt Nam đang và sẽ là thành viên, để vừa gia tăng xuất khẩu, vừa bảo vệ các ngành sản xuất và việc làm trong nước, đồng thời giảm mức độ phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu. Thời gian tới, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện về cơ sở pháp lý đối với công cụ phòng vệ thương mại; công khai thông tin, hỗ trợ tìm kiếm, tập hợp số liệu chính thức thuộc kiểm soát của cơ quan Nhà nước, đồng thời, có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp bảo vệ lợi ích chính đáng của các ngành sản xuất trong nước thông qua việc điều tra, áp dụng các biện pháp phòng vệ trên nguyên tắc công khai, minh bạch, tuân thủ quy định pháp luật và phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam...; tăng cường ngăn chặn hiện tượng Việt Nam bị lợi dụng làm điểm trung chuyển để xuất khẩu hàng hóa sang nước thứ ba, bảo vệ uy tín hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, hướng tới xuất khẩu bền vững. Đồng thời, chú ý bồi dưỡng và cập nhật thông tin, kiến thức, nhận thức, ý thức và năng lực cho cộng đồng doanh nghiệp Việt trong việc nâng cao sức đề kháng và sự chủ động đối phó và sử dụng công cụ phòng vệ thương mại, vượt lên tâm lý ngại kiện, hợp tác tương hỗ lẫn nhau, tạo dựng doanh nghiệp mạnh nhằm kiến tạo lợi thế quốc gia và bảo vệ hiệu quả lợi ích cộng đồng, cũng như lợi ích sát sườn của bản thân doanh nghiệp. Tác giả: TS. Nguyễn Minh Phong, Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên truyền lý luận, Báo Nhân dân (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán tháng 12/2024) 

TÁI CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

Sau tiếng cồng khai trương phiên giao dịch chứng khoán đầu tiên trong năm Nhâm Thìn của Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, những tín hiệu lạc quan cho các mã cổ phiếu giao dịch đã bao trùm trên bảng điện tử, nối tiếp những tín hiệu về một thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ “xanh” hơn trong năm 2012 kể từ sau khi Bộ Tài chính công bố một trong số các biện pháp “cứu” TTCK là Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán (CTCK)   Công ty chứng khoán- Phân loại khốc liệt?                 Đề án tái cấu trúc các công ty chứng khoán được Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành ngày 10/1/2012 tại Quyết định số 62/QĐ-BTC. Đây được coi là một mắt xích trong chuỗi giải cứu TTCK trong năm 2012 và những năm tiếp theo.                 Đề án này ra đời nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp và khả năng kiểm soát rủi ro của các công ty chứng khoán. Trên cơ sở đó, từng bước thu hẹp số lượng các công ty chứng khoán, đồng thời tăng cường khả năng, hiệu quả quản lý, giám sát đối với hoạt động công ty chứng khoán; mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo lộ trình hội nhập đã cam kết.                 Việc phân loại các CTCK để tái cấu trúc sẽ dựa trên cơ sở Thông tư 226 của BTC quy định chỉ tiêu an toàn tài chính và biện pháp xử lý đối với các tổ chức kinh doanh chứng khoán không đáp ứng các chỉ tiêu an toàn tài chính để tiến hành rà soát phân nhóm các CTCK theo mức độ rủi ro giảm dần, dựa trên 2 chỉ tiêu: Vốn khả dụng/tổng rủi ro (bao gồm rủi ro thị trường, rủi ro thanh toán, và rủi ro hoạt động) và tỷ lệ lỗ lũy kế/vốn điều lệ. Theo đó, nhóm 1 (nhóm bình thường) bao gồm các TCCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro trên 150% và có lãi hoặc lỗ lũy kế dưới 30% VĐL; nhóm 2 (nhóm kiểm soát) gồm các CTCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 150% tới trên 120% và có lỗ lũy kế từ 30% đến 50% VĐL; nhóm 3 (nhóm kiểm soát đặc biệt) gồm các CTCK có tỉ lệ vốn  khả dụng/tổng rủi ro dưới 120% và có lỗ lũy kế từ trên 50% VĐL.                 Theo phát biểu của người đứng đầu Ủy ban chứng khoán (UBCK) thì việc phân loại theo Thông tư 226 thực sự là cuộc chiến “khốc liệt” và ngày từ trước khi Đề án Tái cấu trúc CTCK được ban hành, Ủy ban này đã tiến hành làm việc với nhiều công ty để ra soát, nắm lại thực trạng tài chính làm căn cứ để tiến hành phân loại.                 Theo đề án thì ngay trong quý I/2012 (đến tháng 4/2012), những công ty chứng khoán có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro không đảm bảo quy định của Thông tư 226 sẽ phải thực hiện chế độ báo cáo hằng tuần, thậm chí hằng ngày (đối với những CTCK có tỉ lệ vốn khả dụng/tổng rủi ro dưới 120%). Nếu phát hiện CTCK chưa thực hiện tách biệt tài sản của NĐT khi đoàn kiểm tra phát hiện được, CTCK buộc phải thực hiện tách bạch trong thời hạn tối đa 2 tháng. Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam kiểm soát chặt chẽ vấn đề thanh toán giao dịch của CTCK. Còn trong trường hợp liên tục vi phạm thiếu tiền thanh toán, lạm dụng tiền gửi của khách hàng, xem xét rút phép nghiệp vụ môi giới.                 Các biện pháp tái cấu trúc tiếp theo trong giai đoạn những tháng còn lại của năm 2012 và sau năm 2012 cơ quan quản lý sẽ thực hiện các biện pháp mạnh tay hơn bao gồm cả kỹ thuật và hành chính. “Chúng tôi kết hợp 2 giải pháp hành chính và kỹ thuật, trong đó chủ yếu là biện pháp kỹ thuật. Đặt CTCK vào tình trạng kiểm soát thì buộc các đơn vị này phải lo tái cấu trúc: Khoanh nợ, bán tài sản xấu, giảm rủi ro, thu hẹp hoạt động. Khi đã vào nhóm kiểm soát đặc biệt thì CTCK phải có các biện pháp hành chính như họp ĐHCĐ rút nghiệp vụ môi giới”, Chủ tịch UBCK Vũ Bằng cho biết.                 Theo biện pháp được triển khai từ sau năm 2012, đề án đưa ra là cần tăng cường năng lực quản trị và hoạt động của các công ty chứng khoán dựa trên ba trụ cột chính: Quy định về mức độ đủ vốn; Quy định về hướng dẫn thông lệ khuôn khổ quản lý rủi ro cho các công ty chứng khoán; Đánh giá, xếp hạng các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo thông lệ quốc tế từ đó phân loại và giám sát các tổ chức này.                 Đề án cũng đặt ra vấn đề là thu hẹp số lượng CTCK. Vấn đề là thu hẹp đến mức nào thì chưa có đề xuất cụ thể. Với con số hơn 100 CTCK-luôn được cho là quá nhiều như hiện nay thì bao nhiêu CTCK sẽ là phù hợp với TTCK Việt Nam sau khi Đề án tái cấu trúc TTCK chính thức được triển khai? Tuy nhiên, việc giảm bớt số lượng CTCK cũng không hề đơn giản. Bởi theo nhiều nhận định thì tư duy nhiệm kỳ, vấn đề lợi ích nhóm sẽ là rào cản cho vấn đề này.                 “Chứng khoán 2012 sẽ tiền hung, hậu cát” Đây là nhận định của Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ trong thông điệp đầu năm mới khi được báo giới hỏi về sự phát triển của TTCK trong năm 2012. Người đứng đầu Bộ Tài chính cho rằng năm nay kinh tế thế giới và Việt Nam vẫn gặp khó khăn. Nhưng “cái khó sẽ ló cái khôn", "tiền hung hậu cát" (khởi đầu khó khăn, kết thúc tốt đẹp). Cùng với các giải pháp quyết liệt về kỹ thuật, Bộ trưởng khẳng định cơ quan quản lý sẽ đảm bảo cho thị trường ngày một thông suốt, hiện đại và minh bạch hơn. "Các nhà đầu tư yên tâm với việc tin vào Chính phủ, tin vào các chính sách tái cấu trúc thì TTCK sẽ vượt qua khó khăn, phát triển hơn năm 2011". Bày tỏ niềm tin rằng 2012 sẽ là năm “khởi sắc” khi TTCK được tái cơ cấu, ông Huệ cho rằng việc đầu tiên cần làm là “trả lại tên cho chứng khoán” - một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, chứ không để ngân hàng “lấn sân” như suốt thời gian qua. Tiếp đến sẽ sửa luật Chứng khoán, xử lý các công ty chứng khoán (CTCK) thua lỗ, yếu kém theo đề án tái cấu trúc đã được phê duyệt. Theo ông Huệ, TTCK là phong vũ biểu đo lường kinh tế vĩ mô, ngược lại, kinh tế vĩ mô mà tốt thì cũng là yếu tố thúc đẩy TTCK ổn định, tăng trưởng và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động được nhiều vốn trên thị trường.                 Bên cạnh những hỗ trợ từ góc độ vĩ mô (kiểm chế lạm phát, tài khóa hiệu quả, linh hoạt…) Bộ trưởng Vương Đình Huệ cũng khẳng định, ngoài đề án Tái cấu trúc các CTCK đã ban hành, hiện nay các cơ quan chức năng, cùng với UBCKNN đang triển khai quyết liệt chiến lược phát triển TTCK đến năm 2020. Riêng với các doanh nghiệp, sẽ có giải pháp đẩy mạnh hơn nữa quá trình cổ phần hóa, hỗ trợ các doanh nghiệp để tăng hiệu quả sản xuất - cạnh tranh. Đối với 3 lĩnh vực cụ thể mà Bộ có thể trực tiếp hỗ trợ (tín dụng, thuế, phát triển trái phiếu doanh nghiệp), Bộ trưởng nhấn mạnh tới việc thúc đẩy hoạt động của các cơ quan định hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Theo đó, đây sẽ là bước đi quan trọng để phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp và là thành tố để phát triển TTCK trong tương lai. “Tôi nghĩ rằng, với các biện pháp ngắn hạn, trung và dài hạn quyết liệt và đồng bộ như vậy và năm 2012 là năm đánh dấu việc tái cấu trúc mạnh mẽ nền kinh tế trong đó có tái cấu trúc đầu tư công, tái cấu trúc các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, tái cấu trúc TTCK, thị trường sẽ vượt qua giai đoạn khó khăn hiện nay, đi vào ổn định và khởi sắc”, Bộ trưởng Huệ dự báo.                 Một thông tin quan trọng, theo ông Huệ, ngay trong quý 2/2012, Bộ Tài chính sẽ trình Chính phủ về việc thành lập Sở Giao dịch chứng khoán (GDCK) VN trên cơ sở sáp nhập 2 Sở GDCK Hà Nội và TP.HCM, tạo ra một thị trường giao dịch chứng khoán thống nhất nhằm nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả./.  

TÍN DỤNG XANH: CẦN MỘT CHIẾN LƯỢC TỔNG THỂ, KẾT NỐI VỚI CÁC MỤC TIÊU PHÁT TRIẾN KINH TẾ - XÃ HỘI

Việt Nam đã có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh và dư nợ khoảng 650 nghìn tỷ đồng. Trong đó, tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%...   Quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng xanh tăng trưởng khá qua các năm   Theo Hiệp hội thị trường tín dụng (Loan market Association) và Hiệp hội thị trường Tín dụng châu Á - Thái Bình Dương (Asia Pacific Loan Market Association), tín dụng xanh là những khoản tín dụng nhằm hỗ trợ các dự án sản xuất, kinh doanh không/ít gây rủi ro tới môi trường, góp phần bảo vệ sinh thái chung, là biểu hiện của nền tài chính hướng đến sự phát triển bền vững. Danh mục xanh bao gồm: Năng lượng tái tạo; sử dụng năng lượng hiệu quả; giao thông xanh; sản phẩm, các công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường và/hoặc thích nghi với nền kinh tế; quản lý nước bền vững và xử lý nước thải; tòa nhà xanh; nông lâm nghiệp bền vững; ngăn chặn và kiểm soát ô nhiễm.   Tại Việt Nam, để hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế xanh nói chung và mở rộng hoạt động tín dụng xanh nói riêng, Quốc hội, Chính phủ đã khẩn trương ban hành nhiều văn bản theo hướng không ngừng hoàn thiện môi trường pháp lý chung để bộ ngành, địa phương, ngành nghề triển khai nhằm tiến tới mục tiêu Net Zero năm 2050. Trong đó, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định, tín dụng xanh được cấp cho các dự án đầu tư: Sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên; ứng phó với biến đổi khí hậu; quản lí chất thải; xử lí ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường; phục hồi hệ sinh thái tự nhiên; bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học; tạo ra lợi ích khác về môi trường.   Thực hiện Nghị quyết của Đảng, chủ trương của Chính phủ trong thời gian qua, ngành Ngân hàng đã tích cực, chủ động và sáng tạo trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp về tiền tệ, tín dụng ngân hàng nói chung, nhằm hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp, đối phó với tác động tiêu cực của thiên tai, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, phát triển kinh tế tuần hoàn. Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030; hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ chuyển đổi số trong ngành ngân hàng, phát triển nền tảng số, hạ tầng số, sản phẩm, dịch vụ ngân hàng số để phục vụ phát triển kinh tế số, xã hội số, góp phần phát triển bền vững.   Theo Ngân hàng Nhà nước, trong giai đoạn 2017-2022, dư nợ cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với các lĩnh vực xanh có mức tăng trưởng dư nợ bình quân đạt hơn 23%/năm. Nếu năm 2018, quy mô và tỷ trọng vốn tín dụng của các tổ chức tín dụng đối với lĩnh vực kinh tế xanh chỉ chiếm 3,33% trong tổng tín dụng của nền kinh tế, đến năm 2022 tăng lên 4,2%. Thời điểm tháng 6/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đạt gần 528.300 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,2% tổng dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với toàn bộ nền kinh tế. Đến nay, dư nợ tín dụng xanh khoảng 650 nghìn tỷ đồng, trong đó tín dụng đối với năng lượng tái tạo, năng lượng sạch chiếm khoảng 45%; đối với nông nghiệp sạch, xanh chiếm 30%...   Bên cạnh đó, giai đoạn năm 2016-2020, Việt Nam đã có 4 đợt phát hành trái phiếu xanh, giá trị 284 triệu USD. Giai đoạn năm 2019-2024, Việt Nam đã phát hành khoảng 1,16 tỷ USD trái phiếu xanh. Nhiều tổ chức tín dụng đã ban hành quy định nội bộ về rủi ro môi trường và tác động xã hội; 80% đến 90% các ngân hàng thương mại đã áp dụng một phần hoặc toàn bộ chỉ số đánh giá môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trong hoạt động.   Thực tiễn hoạt động tín dụng xanh đã được một số ngân hàng đưa vào áp dụng, triển khai và đã đạt được những kết quả khả quan. Theo đó, nhiều ngân hàng như BIDV, Vietcombank, VietinBank, MB đạt tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh bình quân lên tới 45%/năm. Hay như SeABank đã được nhiều tập đoàn/tổ chức tài chính quốc tế như IFC, DFC và nhiều quỹ đầu tư quốc tế tài trợ vốn lên tới gần 600 triệu USD để triển khai các chương trình tín dụng xanh, hỗ trợ các hoạt động kinh doanh thuộc các ngành, lĩnh vực thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu.   Xây dựng chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh   Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai nhằm thúc đẩy tín dụng xanh của các tổ chức tín dụng đang gặp một số khó khăn. Theo ThS. Dương Văn Bôn, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam chưa có quy định chung về tiêu chí, danh mục dự án xanh cho các ngành, các lĩnh vực theo hệ thống phân ngành kinh tế, làm căn cứ để các tổ chức tín dụng xác định cấp tín dụng xanh cho giai đoạn tới. Khung pháp lý về tín dụng xanh của Việt Nam chưa hoàn thiện, gây ra khó khăn trong việc phát triển hoạt động này trên thực tiễn. Nhiều văn bản pháp lý đang được ban hành về tín dụng xanh, ngân hàng xanh của Ngân hàng Nhà nước còn chung chung. Nội dung cụ thể về ngân hàng xanh, tín dụng xanh về cơ bản mới chỉ mang tính chất định hướng, khuyến khích các tổ chức tín dụng thực hiện, mà chưa mang tính bắt buộc.     Việc cấp tín dụng xanh đòi hỏi yếu tố kỹ thuật về môi trường chuyên sâu sẽ là khó khăn cho cán bộ tín dụng của các tổ chức tín dụng trong việc thẩm định, đánh giá hiệu quả của dự án, khả năng trả nợ của khách hàng. Đặc biệt là khách hàng trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo, với dự án đi vào hoạt động trong thời gian chưa dài, hiệu quả phụ thuộc nhiều vào hợp đồng mẫu. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng gặp khó khăn trong việc giám sát và quản lý rủi ro khi thực hiện cấp tín dụng xanh do còn thiếu cơ sở pháp lý, tiêu chí, tiêu chuẩn đánh giá công cụ đo lường tác động đến môi trường.   TS. Nguyễn Quốc Hùng - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đánh giá, mặc dù đã có những tín hiệu tích cực trong tăng trưởng tín dụng xanh, ngân hàng xanh, song vẫn chưa khai thác hết tiềm năng. Việc phát triển hoạt động ngân hàng xanh tại các tổ chức tín dụng còn nhiều bất cập do cần nguồn lực rất lớn để triển khai; kiến thức, kinh nghiệm của các cán bộ ngân hàng thực hiện công tác thẩm định và phê duyệt cấp tín dụng liên quan các vấn đề môi trường xã hội nhìn chung còn hạn chế. Một số ngân hàng rất chủ động, tiên phong nhưng số khác lại rất chậm.   Về phía các doanh nghiệp, trong quá trình tiếp cận tài chính xanh, các doanh nghiệp gặp khó khăn do thiếu thông tin về các đơn vị cấp tín dụng xanh; các quỹ tín dụng xanh thường không chấp nhận tài sản bảo đảm, doanh nghiệp cần có bảo lãnh ngân hàng; các dự án quy mô nhỏ khó tiếp cận vốn vay nước ngoài…   Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng, đối với tín dụng xanh, hiện Ngân hàng Nhà nước gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do hệ thống ngân hàng cần được hướng dẫn của các cơ quan, bộ ngành liên quan đến danh mục phân loại xanh để các tổ chức tín dụng có căn cứ khi cấp tín dụng. Bên cạnh đó, đầu tư vào những lĩnh vực xanh như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch… đòi hỏi nguồn vốn với giá trị rất lớn và kì hạn dài. Đây chính là những khó khăn của hệ thống ngân hàng khi nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng rất ngắn hạn.   Việt Nam là nước chịu tác động lớn bởi biến đổi khí hậu, tình hình bão lũ thiên tai vừa qua đặt ra yêu cầu cho các cơ quan, bộ ngành phải tập trung rà soát những giải pháp để ứng phó hiệu quả. Ngành ngân hàng đã ban hành rất nhiều các văn bản hướng dẫn để đánh giá về rủi ro và môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Tuy nhiên, việc chưa có danh mục về phân loại xanh khiến Ngân hàng Nhà nước gặp khó khăn. Do đó, thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục quan tâm thực hiện triển khai theo đúng kế hoạch của Thủ tướng Chính phủ, đặc biệt, khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt danh mục phân loại xanh, Ngân hàng Nhà nước sẽ hướng dẫn các tổ chức tín dụng cấp tín dụng xanh và theo dõi thực hiện, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng nhấn mạnh.   Việt Nam đặt mục tiêu cuối năm 2025 tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh đạt 25% so với hiện nay; đạt 30% đến 35%/năm cho giai đoạn năm 2025-2030. Tương ứng tỷ lệ trên là mục tiêu tỷ trọng tín dụng xanh trong nền kinh tế từ 4,6% tăng lên 10% vào cuối 2025 và 20% vào cuối năm 2030. Đây là những thách thức rất lớn, mục tiêu khó khăn đối với ngành ngân hàng.   Tại diễn đàn Tài chính xanh năm 2024, Phó Giám đốc Ban kinh doanh vốn và tiền tệ Ngân hàng BIDV Nguyễn Bá Sơn khuyến nghị, cần sớm ban hành quy định phân loại và xác nhận dự án xanh, xem xét sự tương đồng giữa các tiêu chí xanh của Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc tế; các chính sách ưu đãi để thu hút nhà đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực về môi trường và xây dựng hệ thống dữ liệu về môi trường. Cùng với đó, doanh nghiệp cần được nâng cao nhận thức và khuyến khích thực hiện chuyển đổi xanh; duy trì, mở rộng các cơ chế hỗ trợ chi phí phát hành, tư vấn kỹ thuật và khuyến khích các doanh nghiệp đầu ngành tiên phong phát hành chứng khoán xanh.   Các chuyên gia cho rằng, để phát triển tín dụng xanh, trước tiên là phải hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng các tiêu chí xác định dự án xanh. Đây là cơ sở để các tổ chức tín dụng làm căn cứ lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh cho các dự án. Tiếp đó, Việt Nam cần có một chiến lược tổng thể để phát triển thị trường tài chính xanh một cách hài hòa, hiệu quả giữa các kênh dẫn vốn, gắn với các định hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; có cơ chế thu hút nguồn vốn cho đầu tư xanh bằng chính sách miễn giảm thuế, phí, lệ phí, lãi suất và hỗ trợ các chi phí liên quan đến phát hành trái phiếu xanh, cung cấp tín dụng xanh. Các chính sách liên quan đến thị trường tài chính xanh cần sớm được ban hành hoặc lồng ghép với những chính sách về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, chuyển đổi năng lượng và ứng phó biển đổi khí hậu...   Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, từ nay đến năm 2040, Việt Nam cần đầu tư bổ sung 368 tỉ USD, tương đương khoảng 6,8% GDP mỗi năm cho lộ trình chống chịu và đưa phát thải ròng về 0.

Sửa thuế thu nhập cá nhân - Trọng tâm và kỳ vọng

Việc sửa đổi Luật Thuế thu nhập cá nhân (ban hành từ năm 2007, có hiệu lực từ năm 2009) sau hơn 15 năm áp dụng là cần thiết để bắt kịp biến động thực tế và được toàn  xã hội mong đợi, với kỳ vọng không chỉ góp phần nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước về thuế, mà còn hiện thức hóa chủ trương khoan sức dân, tạo động lực mới cho phong trào thi đua làm giàu, kích thích cả sản xuất và tiêu dùng, cả cung và cầu, góp phần cán đích tăng trưởng GDP 2 con số trong kỷ nguyên mới ở nước ta. Theo Bộ Tài chính, dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (sửa đổi) dự kiến sửa đổi, bổ sung 30/35 điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân hiện hành, theo đó: Tập trung sửa đổi, điều chỉnh và hoàn thiện các nội dung liên quan đến thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân và cách tính thuế đối với từng loại thu nhập chịu thuế; các khoản được miễn thuế thu nhập cá nhân; cách tính thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh; mức doanh thu chịu thuế đối với thu nhập của hộ, cá nhân kinh doanh; mức thuế suất đối với một số khoản thu nhập từ hoạt động cung cấp sản phẩm, dịch vụ phần mềm; sản phẩm và dịch vụ nội dung thông tin số về giải trí, trò chơi điện tử, phim số, ảnh số, nhạc số, quảng cáo số…; mức giảm trừ khi tính thuế thu nhập cá nhân; giảm số bậc thuế lũy tiến từng phần áp dụng đối với cá nhân cư trú có thu nhập từ tiền lương tiền công; kỳ tính thuế, khấu trừ thuế, thời điểm xác định thunhập chịu thuế; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trả thu nhập và trách nhiệm của người nộp thuế. Đồng thời, bổ sung thêm quy định về nhóm thu nhập khác thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân; về miễn thuế, giảm thuế thu nhập cá nhân và về các khoản giảm trừ đặc thù khác. Ngoài ra, bổ sung thẩm quyền cho Chính phủ và Bộ Tài chính về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh, ngưỡng doanh thu kinh doanh không phải nộp thuế thu nhập cá nhân; về phạm vi xác định các khoản đóng góp từ thiện, nhân đạo được giảm trừ, các khoản giảm trừ đặc thù khác; về mức thu nhập thấp để xác định người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh và về mức tạm khấu trừ thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản thu nhập vãng lai của cá nhân. Chính sách thuế thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản sẽ được chỉnh lý theo hướng sát với thực tế, minh bạch, công bằng hơn, đảm bảo đúng bản chất thu trên chênh lệch như mục tiêu ban đầu, ổn định thị trường và phù hợp thông lệ quốc tế. Cách tính thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng chứng khoán với thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng, thu theo từng lần giao dịch nhằm đơn giản hóa thủ tục và thuận tiện cho nhà đầu tư cá nhân, song không phù hợp với nhà đầu tư dài hạn hoặc có thu nhập biến động, đặc biệt khi phát sinh lỗ, nhưng không được hoàn thuế nếu không quyết toán. Theo đó, phương án cho phép cá nhân lựa chọn quyết toán vào cuối năm nhằm phản ánh đúng thu nhập thực tế, đảm bảo tính công bằng cũng được dự kiến. Trường hợp chia cổ tức bằng cổ phiếu, thuế thu nhập cá nhân không phát sinh tại thời điểm chia, mà sẽ được tính thuế suất 0,1% trên giá chuyển nhượng khi cá nhân chuyển nhượng số cổ phiếu đó. Đặc biệt, các phương án điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh cũng được cân nhắc có lợi hơn cho người dân và đảm bảo sự công bằng cho người nộp thuế, đồng thời tránh ảnh hưởng đột ngột đến nguồn thu ngân sách. Các cá nhân làm nội dung số, mạng xã hội được khấu trừ chi phí hợp lý tối đa 4 triệu đồng/tháng trước khi tính thuế nhằm phản ánh đúng chi phí thực tế phát sinh. Một nội dung được dư luận quan tâm nhất là đề  xuất của Bộ Tài chính giảm số bậc trong biểu thuế  thu nhập cá nhân xuống còn 5 bậc thay vì 7 bậc như quy định hiện hành và mức thuế suất cao nhất vẫn là 35%. Cụ thể, theo dự thảo, Bộ Tài chính đưa ra 2 phương án sửa đổi biểu thuế này theo hướng giảm số bậc và nới rộng khoảng cách thu nhập. Bộ Tài chính đưa ra 2 phương án sửa đổi biểu thuế thu nhập cá nhân Đối với cả 2 phương án được Bộ Tài chính đề xuất, mức thuế tối thiểu 5% tương ứng với thu nhập tính thuế trong tháng là 10 triệu đồng (sau khi giảm trừ gia cảnh, các chi phí tính thuế khác). Mức thuế tối đa là 35%, với thu nhập tính thuế trên 80 triệu đồng (phương án 1) và 100 triệu đồng trở lên (phương án 2). Việc thu hẹp số bậc thuế sẽ giúp đơn giản hóa trong quản lý, thu thuế, tạo thuận lợi cho kê khai và hội nhập xu hướng cải cách thuế trên thế giới. Đối với phương án 1, các cá nhân hiện nộp thuế từ bậc 2 trở lên sẽ được giảm thuế so với hiện nay; còn nếu kết hợp việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh thì cá nhân đang có thu nhập ở bậc 1 cũng đều được giảm thuế. Đối với phương án 2, cơ bản mọi cá nhân có thu nhập tính thuế từ 50 triệu đồng/tháng trở xuống sẽ được giảm thuế tương đương phương án 1. Đối với cá nhân có thu nhập tính thuế trên 50 triệu đồng/ tháng thì mức độ giảm sẽ nhiều hơn phương án 1, vì vậy số thu ngân sách nhà nước sẽ giảm nhiều hơn phương án 1. Trước hết, dư luận hoan nghênh việc áp dụng thuế thu nhập cá nhân theo các mức lũy tiến từng phần là phù hợp xu hướng chung trên thế giới và việc giảm số bậc lũy tiến giúp đơn giản hóa biểu thuế. Hơn nữa, cũng cần thấy rằng, mức thuế cao nhất của Việt Nam chưa phải là mức cao trên thế giới. Trong khi đó, năm 2024, Phần Lan tăng thuế suất cao nhất từ 57% lên 57,3%; Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc có mức mức thuế suất cao nhất 45% và Philippines, Indonesia có mức 35%. Riêng số bậc thuế dao động từ 5 đến 13 bậc ở châu Á, còn ở châu Âu, Bắc Mỹ và châu Úc, phần lớn các quốc gia áp dụng từ 5 đến 6 bậc thuế. Như vậy, việc thực hiện theo 2 phương án đều đáp ứng được mục tiêu giảm bậc, điều chỉnh thu nhập tính thuế ở từng bậc, tuy nhiên, ảnh hưởng của 2 phương án là khác nhau. Đồng thời, tại dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh của thuế thu nhập cá nhân, Bộ Tài chính đề xuất 2 phương án. Phương án 1: Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo tốc độ tăng CPI theo quy định. Cụ thể: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 13,3 triệu đồng/tháng; Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 5,3 triệu đồng/tháng. Phương án 2: Điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người và tốc độ tăng GDP bình quân đầu người. Cụ thể: Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 15,5 triệu đồng/tháng; Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 6,2 triệu đồng/tháng. Vấn đề mà dư luận hiện băn khoăn là tại sao chỉ có 2 phương án điều chỉnh được đề xuất gắn với mức trượt CPI (phương án 1) và mức gia tăng quy mô GDP/người (phương án 2), khiến mức ngưỡng chịu thuế và giảm trừ gia cảnh vẫn lạc hậu so với thực tiễn hiện nay. Năm 2020, mức lương cơ sở ở mức 1,49 triệu đồng/tháng. Hiện nay, mức lương này đã tăng lên 2,34 triệu đồng - tức tăng hơn 57% - nhưng mức giảm trừ gia cảnh vẫn giữ nguyên ở mức cũ. Điều này khiến không ít người lao động cảm thấy thiệt thòi. Đồng thời, khoảng cách giữa các bậc thuế rất gần tạo ra tâm lý lo ngại về việc mức thuế phải nộp tăng cao. Điều này cũng khiến cho việc tính thuế trở nên khó khăn, phức tạp hơn đối với cả người nộp thuế và cơ quan thuế. Chính những yếu tố đó dẫn đến tâm lý e ngại, thậm chí có xu hướng trốn thuế ở một bộ phận người nộp thuế, do cảm thấy không được khuyến khích phấn đấu thu nhập. Hiện nay, mức thu nhập chịu thuế sau giảm trừ là 11 triệu đồng/tháng. Tuy nhiên, một số địa phương như Hà Tĩnh, Ninh Thuận đã đề xuất nâng mức này lên 16 đến 18 triệu, thậm chí 20 đến 25 triệu đồng/tháng, với lý do phản ánh sát hơn chi phí sinh hoạt thực tế. Thực tế tại các đô thị lớn cho thấy, với mức thu nhập 11 triệu đồng/tháng - là ngưỡng chịu thuế hiện nay - nhiều người dân cho biết thu nhập này hầu như chỉ đủ chi trả tiền thuê nhà và học phí cho con. Việc điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo chỉ số CPI hay theo thu nhập bình quân đầu người đều có lý do riêng từ phía cơ quan chức năng. Tuy nhiên, câu hỏi khác đặt ra là tại sao không có phương án 3, trong đó có mức ngưỡng chịu thuế mới và mức chiết trừ gia cảnh được tính toán dựa vào cả 2 mức trượt CPI và mức gia tăng quy mô GDP/người. Nói cách khác, khi cơ quan chức năng dựa trên cơ sở dữ liệu về thu nhập và người nộp thuế, cũng như xác định đúng mức sống tối thiểu thực tế làm căn cứ giúp chính sách thuế được xây dựng chính xác và công bằng hơn, đưa thêm phương án 3 xử lý tất cả những vướng mắc mà người dân băn khoăn, cũng như bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước và người dân, xã hội; nỗ lực hướng tới mục tiêu cao nhất của công cuộc Đổi mới, phát triển và hội nhập trong Kỷ nguyên vươn mình là lấy hạnh phúc của người dân là thước đo thành tựu năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, lấy con người là động lực và mục tiêu cao nhất của toàn bộ quá trình phát triển đất nước… Theo chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc tại cuộc họp chiều ngày 31/7 với các bộ, ngành, hiệp hội, doanh nghiệp chứng khoán, bất động sản, việc sửa đổi dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân lần này phải đảm bảo đúng quy định pháp luật hiện hành, công bằng, hiệu quả, phù hợp, minh bạch trong áp dụng thực tiễn… Dư luận quan tâm và kỳ vọng, dự thảo Luật cần cân nhắc và đánh giá kỹ lưỡng tác động khi thiết kế các nội dung liên quan mức thuế và lộ trình tính thuế thu nhập cá nhân từ chuyển nhượng bất động sản và chứng khoán (cổ phiếu, cổ tức, cổ phiếu thưởng) và mức giảm trừ gia cảnh cho phù hợp với mức sống của người dân và từng địa phương, cũng như để phát triển thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán lành mạnh. Khi người dân “tâm phục khẩu phục”, đồng thuận và đoàn kết xã hội cao, thì mọi việc quốc kế dân sinh sẽ không còn là khó khăn, các giá trị xã hội chuẩn chung sẽ được củng cố và lợi ích quốc gia sẽ được bảo vệ vững chắc. Tác giả: TS Nguyễn Minh Phong, Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên truyền lý luận, Báo Nhân dân (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, tháng 9/2025)