Thứ ba, 16/9/2025

Điện thoại (024) 6287 3463

Đường dây nóng (024) 6287 3463

Liên hệ quảng cáo (+84)915.632.345

Thứ ba, 16/9/2025
Share on Facebook
Copy to Clipboard

Ý KIẾN CỦA KTV TRÊN BÁO CÁO KIỂM TOÁN Ở VIỆT NAM

Báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên về báo cáo tài chính là khâu công việc cuối cùng của quá trình kiểm toán báo cáo tài chính.

 

Ý kiến của KTV trên báo cáo Kiểm toán ở Việt Nam

 

BÀN VỀ Ý KIẾN CỦA KIỂM TOÁN VIÊN TRÊN

 BÁO CÁO KIỂM TOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN HÀNH

                                          

                                          Nguyễn Thị Nguyệt Thu

                                             Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội

 

Báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên về báo cáo tài chính là khâu công việc cuối cùng của quá trình kiểm toán báo cáo tài chính. Về thực chất, báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính là bản thông báo kết quả cuộc kiểm toán báo cáo tài chính cho người sử dụng báo cáo tài chính; trong đó, kiểm toán viên phải nêu được những đánh giá của mình về sự phù hợp và tính đúng đắn, trung thực của báo cáo tài chính cũng như sự tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành khi lập báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên, ý kiến của kiểm toán viên phản ánh trên báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính ở Việt Nam hiện còn khá nhiều vấn đề cần trao đổi. Bài viết này, xin đề cập đến vấn đề nêu trên.

1. Các loại ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán 

Theo Chuẩn mực số 700 "Báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính" ban hành theo  Quyết định số 120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, báo cáo kiểm toán là loại báo cáo bằng văn bản do kiểm toán viên và công ty kiểm toán lập và công bố để nêu rõ ý kiến chính thức của mình về báo cáo tài chính của một đơn vị đã được kiểm toán. Trong ý kiến đánh giá của kiểm toán viên phải xác định mức độ phù hợp của báo cáo tài chính với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành hoặc được chấp nhận, cũng như xác định sự tuân thủ theo các quy định pháp lý có liên quan khi lập báo cáo tài chính. Đồng thời, báo cáo kiểm toán phải nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên về các báo cáo tài chính trên phương diện phản ánh (hoặc trình bày) trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu, trên phương diện tuân thủ các chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành (hoặc được chấp nhận), và việc tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan. "Phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu" được hiểu là ý kiến của kiểm toán viên đưa ra trong báo cáo kiểm toán là một sự đảm bảo chắc chắn rằng báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu; nhưng không đảm bảo tuyệt đối rằng không có bất kỳ một sai sót nào trong báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Kiểm toán viên chỉ quan tâm đến các yếu tố trọng yếu của báo cáo tài chính.

Ngoài các nội dung chung như: Tên và địa chỉ công ty kiểm toán; số hiệu báo cáo kiểm toán; tiêu đề báo cáo kiểm toán; người nhận báo cáo kiểm toán; mở đầu của báo cáo kiểm toán, phạm vi và căn cứ thực hiện cuộc kiểm toán, ..., nội dung chủ yếu của báo cáo kiểm toán là ý kiến đánh giá của kiểm toán viên về báo cáo tài chính đã được kiểm toán. Đồng thời, báo cáo kiểm toán phải nêu rõ là cuộc kiểm toán đã cung cấp những cơ sở hợp lý để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên. Căn cứ kết quả kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra một trong các loại ý kiến về báo cáo tài chính như: Ý kiến chấp nhận toàn phần; ý kiến chấp nhận từng phần; ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến) và ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược).

Ý kiến chấp nhận toàn phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị được kiểm toán, và phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành (hoặc được chấp nhận). Ý kiến chấp nhận toàn phần cũng có hàm ý rằng tất cả các thay đổi về nguyên tắc kế toán và các tác động của chúng đã được xem xét, đánh giá một cách đầy đủ và đã được đơn vị nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo tài chính. Ý kiến chấp nhận toàn phần được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo tài chính được kiểm toán có những sai sót nhưng đã được kiểm toán viên phát hiện đơn vị đã điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên và đã được kiểm toán viên chấp nhận. Ngoài ra, ý kiến chấp nhận toàn phần còn được áp dụng cho cả trường hợp báo cáo kiểm toán có một đoạn nhận xét để làm sáng tỏ một số yếu tố ảnh hưởng không trọng yếu đến báo cáo tài chính, nhưng không có ảnh hưởng đến báo cáo kiểm toán. Cũng cần lưu ý rằng: ý kiến chấp nhận toàn phần không có nghĩa là báo cáo tài chính được kiểm toán là hoàn toàn đúng, mà có thể có sai sót nhưng sai sót đó là không trọng yếu.

Ý kiến chấp nhận từng phần được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng báo cáo tài chính chỉ phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của đơn vị, nếu không bị ảnh hưởng bởi yếu tố tuỳ thuộc (hoặc ngoại trừ) mà kiểm toán viên đã nêu ra trong báo cáo kiểm toán. Điều này cũng có nghĩa là nếu các yếu tố do kiểm toán viên nêu ra trong báo cáo kiểm toán có ảnh hưởng trọng yếu đến báo cáo tài chính thì báo cáo tài chính đó đã không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu. Ý kiến chấp nhận từng phần cũng được đưa ra trong trường hợp kiểm toán viên cho rằng không thể đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần, và những phần không chấp nhận do không đồng ý với Giám đốc hay do công việc kiểm toán bị giới hạn là quan trọng nhưng không liên quan tới một số lượng lớn các khoản mục tới mức có thể dẫn đến “ý kiến từ chối, hoặc ý kiến không chấp nhận”. Ý kiến chấp nhận từng phần còn được thể hiện bởi thuật ngữ “ngoại trừ” ảnh hưởng của các vấn đề không được chấp nhận, bằng mẫu câu: “ngoại trừ những ảnh hưởng (nếu có) của những vấn đề nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu...” .

Ý kiến từ chối (hoặc ý kiến không thể đưa ra ý kiến) được đưa ra trong trường hợp hậu quả của việc giới hạn phạm vi kiểm toán là quan trọng hoặc thiếu thông tin liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục tới mức mà kiểm toán viên không thể thu thập đầy đủ và thích hợp các bằng chứng kiểm toán để có thể cho ý kiến về báo cáo tài chính, bằng mẫu câu: “Theo ý kiến của chúng tôi, vì các lý do nêu trên, chúng tôi không thể đưa ra ý kiến về báo cáo tài chính...”.

Ý kiến không chấp nhận (hoặc ý kiến trái ngược) được đưa ra trong trường hợp các vấn đề không thống nhất với Giám đốc là quan trọng hoặc liên quan đến một số lượng lớn các khoản mục đến mức độ mà kiểm toán viên cho rằng ý kiến chấp nhận từng phần là chưa đủ để thể hiện tính chất và mức độ sai sót trọng yếu của báo cáo tài chính, bằng mẫu câu: "Theo ý kiến của chúng tôi, vì ảnh hưởng trọng yếu của những vấn đề nêu trên, báo cáo tài chính phản ánh không trung thực và không hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu...".

 

2. Thực trạng ý kiến của kiểm toán viên và công ty kiểm toán ở Việt Nam hiện nay về kết quả kiểm toán báo cáo tài chính 

Xung quanh nội dung “ý kiến của kiểm toán viên” phản ánh trên các báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính ở Việt Nam hiện nay còn có khá nhiều vấn đề cần trao đổi - nhất là nội dung và "vỏ bọc" của chúng.

Về nội dung, phần trình bày ý kiến của kiểm toán viên trên báo cáo kiểm toán là phần đúc kết nhất khẳng định lại toàn bộ những kết luận về đối tượng kiểm toán. Do bản chất vốn có của một cuộc kiểm toán và tính chất của các gian lận, không thể đảm bảo chắc chắn rằng gian lận luôn được phát hiện nên trong thực tế, một chuyên gia phát hiện gian lận nhiều kinh nghiệm cũng không thể đảm bảo chắc chắn phát hiện được toàn bộ các gian lận khi chúng được che dấu một cách cố ý. Vì vậy, xét trên một phương diện nào đó, độ tin cậy với những kết luận của kiểm toán viên chỉ mang tính tương đối.

 Qua khảo sát và thống kê ý kiến của kiểm toán viên trên báo cáo kiểm toán về kiểm toán báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết đã được công bố cho thấy: hơn 90% báo cáo kiểm toán báo cáo tài chính đã khảo sát kết luận của kiểm toán viên cho rằng” Theo chúng tôi, báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu…”; khoảng 0,5% ý kiến cho rằng không thể đưa ra kết luận nhưng những báo cáo này chỉ xuất hiện sau khi đơn vị được kiểm toán đã lên sàn được một thời gian; còn lại là các báo cáo chứa đựng ý kiến ngoại trừ của kiểm toán viên. Kết quả này phản ánh một thực trạng: gần 100% báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết ở Việt Nam phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.

Tuy nhiên, hơn ai hết, các công ty được kiểm toán và bản thân các kiểm toán viên hiểu rất rõ báo cáo tài chính của các đơn vị được kiểm toán nói riêng và báo cáo tài chính của các doanh nghiệp nói chung ở Việt Nam trung thực và hợp lý (trên khía cạnh trọng yếu) ở mức nào! Bởi vì, bên cạnh những gian lận bị che dấu mà kiểm toán viên không phát hiện ra thì còn tồn tại khá nhiều gian lận đã được phát hiện nhưng cũng bị che dấu bằng cách này hay cách khác.

 Về cách thức sử dụng ngôn ngữ của kiểm toán viên trong phần trình bày ý kiến trên các báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính, theo kết quả điều tra các nhân viên của một số đơn vị kiểm toán, được biết: thông thường, khi tiến hành một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, thời gian đầu công việc được các kiểm toán viên thực hiện khá chặt chẽ và triệt để, song càng về sau - nhất là gần sát thời điểm kết thúc kiểm toán -  việc kiểm toán càng được “lỏng tay” hơn! Cũng không ai dám khẳng định là không có việc “làm đẹp”, "đánh bóng" các báo cáo tài chính để công bố rộng rãi, thu hút các nhà đầu tư và tất cả những ai đã và sắp quan tâm tới đơn vị là điều dễ hiểu! 

Qua nghiên cứu các báo cáo kiểm toán về báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết đã được công bố, dễ bắt gặp hay dễ tìm thấy các báo cáo kiểm toán có chứa ý kiến chấp nhận toàn phần. Ngôn ngữ mà kiểm toán viên sử dụng trong việc bày tỏ ý kiến trên báo cáo kiểm toán thường gần giống nhau; chẳng hạn: "Theo ý kiến chúng tôi, xét trên mọi khía cạnh trọng yếu thì Báo cáo tài chính đã phản ảnh trung thực và hợp lý về tình hình tài chính của Công ty và kết quả hoạt động kinh doanh cũng như tình hình lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính " hoặc: "Theo ý kiến chúng tôi, Báo cáo tài chính đề cập đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty, kết quả hoạt động kinh doanh và lưu chuyển tiền tệ cho năm tài chính kết thúc cùng ngày, đồng thời phù hợp với các Chuẩn mực, Chế độ Kế toán Doanh nghiệp Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan", hay: "Theo ý kiến của chúng tôi, Báo cáo tài chính kèm theo đã phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, tình hình tài chính của Công ty... cũng như kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho năm tài chính kết thúc cùng ngày, phù hợp với các Chuẩn mực Kế toán Việt Nam, Hệ thống Kế toán Việt Nam và các quy định hiện hành khác về kế toán tại Việt Nam, ... Những ý kiến tương tự như: "Theo ý kiến của chúng tôi, Báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty ..., cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan" hay : "Theo ý kiến của chúng tôi, báo cáo tài chính kèm theo đã phản ánh trung thực và hợp lý, trên các khía cạnh trọng yếu, tình hình tài chính của Công ty ... cũng như kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho năm tài chính kết thúc cùng ngày, phù hợp với các Chuẩn mực Kế toán Việt Nam, Hệ thống Kế toán Việt Nam và các quy định hiện hành khác về kế toán tại Việt Nam"... chiếm hầu hết trong các báo cáo kiểm toán của kiểm toán viên.

Bên cạnh các ý kiến chấp nhận toàn phần, ý kiến chấp nhận từng phần cũng được kiểm toán viên vận dụng khá triệt để và ngày càng nhiều hơn - nhất là trong các báo cáo kiểm toán năm tài chính 2007. Ý kiến này được các kiểm toán viên sử dụng để loại trừ ảnh hưởng của một số vấn đề có tính trọng yếu đến báo cáo tài chính của đơn vị mà thực chất  là một cách chối bỏ trách nhiệm của kiểm toán viên đối với kết quả kiểm toán. Bằng cách này, kiểm toán viên dễ dàng đùn đẩy trách nhiệm (nếu có) do những ảnh hưởng này có thể phát sinh trong tương lai mà đơn vị được kiểm toán và kiểm toán viên không thể kiểm soát được. Ngôn ngữ mà kiểm toán viên sử dụng khi nêu ý kiến chấp nhận từng phần dù có khác nhau tí chút nhưng người sử dụng thông tin cũng dễ dàng nhận ra mục đích của những ý kiến này. Chẳng hạn: "Trong kỳ, Công ty chưa tiến hành trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi theo thông tư số 13/2006/TT-BTC ngày 27/02/2006 của Bộ Tài chính số tiền 3.882.753.230 VND. Trong năm tài chính 2007, doanh thu và giá vốn của các bên tham gia liên doanh dự án  ... đang được Công ty phản ánh vào kết quả kinh doanh. Tuy nhiên việc phản ánh này không ảnh hưởng đến lợi nhuận sau thuế của Công ty. Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ vấn đề nêu trên và ảnh hưởng của chúng, Báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của Công ty  ... tại ngày 31/12/ 2007, cũng như kết quả kinh doanh và các luồng lưu chuyển tiền tệ trong năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12 /2007, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan. Chúng tôi, cũng xin lưu ý người đọc báo cáo tài chính: Trong năm tài chính 2007, công ty thực hiện tạm quyết toán và phân chia lợi nhuận đợt I toàn dự án ... Theo đó giá vốn quỹ nhà ở của Thành Phố theo Quyết định 1253/QĐ-UB ngày 21/02/2002 đang được Công ty ghi nhận vào phần quyết toán nhà phải trả thành phố.

Các báo cáo tài chính có chứa đựng những sai sót trọng yếu đã được điều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên cũng được xếp vào loại báo cáo tài chính được kiểm toán báo cáo chấp nhận toàn phần, với nội dung ‘’theo ý kiến của chúng tôi,báo cáo tài chính đã phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của Công ty...’’. Tuy nhiên trước khi đưa ra câu kết luận đó, không ít các sai phạm đã được liệt kê thông qua phần “cơ sở ý kiến” hoặc phần “hạn chế kế toán”;” những vấn đề ảnh hưởng đến ý kiến của kiểm toán viên”. Để đảm bảo tính hợp lý của nội dung báo cáo và đảm bảo tính an toàn cho nhận xét kiểm toán, các câu như "ngoại trừ ảnh hưởng của những vấn đề nêu trên và ảnh hưởng của chúng nếu có...” được sử dụng khá phổ biến. Rõ ràng, những câu đệm trên xuất hiện đã làm giảm tính rủi ro cho phần trách nhiệm của các kết luận kiểm toán đưa ra. Bởi ảnh hưởng ‘nếu có” của các vấn đề nêu trên thường liên quan đến các sự kiện có thể sảy ra trong tương lai, nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị và của kiểm toán viên. Việc đưa ra ý kiến này giúp kiểm toán viên hoàn thành trách nhiệm kiểm toán của mình nhưng cũng làm cho người đọc báo cáo tài chính phải lưu ý và tiếp tục theo dõi khi sự kiện có thể xảy ra.

Một cách hài hước, kiểm toán viên đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu hết sức thú vị đối với cách hành văn trong báo cáo kiểm toán tài chính. Đó là, ý kiến của kiểm toán viên nêu ra bao gồm kiểm toán viên phải quán triệt 4 nguyên tắc: mang tính xây dựng, thực tế, khéo léo, cấu trúc ngắn gọn và rõ ràng.

Nguyên tắc "Mang tính xây dựng" được lý giải là "Lời nói không mất tiền mua, lựa lời mà viết cho vừa lòng nhau". Ý kiến của kiểm toán viên đưa ra phải vừa lòng các nhà quản lý, các khách thể kiểm toán và do vậy, các báo cáo kiểm toán sẽ được trình bày hợp lý, hợp ý đơn vị mà kiểm toán viên lại chẳng mất mát gì! Nguyên tắc "Thực tế" được hiểu là "Trăm nghe không bằng một thấy", nguyên tắc "Khéo léo" nghĩa là "Biết nhiều không bằng biết điều" và nguyên tắc "Cấu trúc ngắn gọn và rõ ràng" được hiểu là "Đa thư, loạn tâm" hay "Nói dài, nói dai, nói dại"! Hơn ai hết, sau cuộc kiểm toán, kiểm toán viên là người nắm rõ nhất về tình hình hoạt động, tình hình tài chính của khách thể kiểm toán; tuy nhiên, không có nghĩa là biết từng nào giải trình từng đó, mà các kiểm toán viên rất” biết điều” cho ra tác phẩm của mình.

Bên cạnh những vấn đề xuất phát từ kiểm toán viên và từ công ty kiểm toán, chúng ta cũng không thể không đề cập đến vấn đề xuất phát từ khách thể kiểm toán dẫn đến làm giảm độ tin cậy của báo cáo kiểm toán. Công ty kiểm toán và kiểm toán viên chỉ dùng nghiệp vụ của mình kiểm tra bản báo cáo tài chính, phát hiện, chỉ rõ những sai sót về hạch toán, đồng thời đề nghị doanh nghiệp điều chỉnh số liệu theo hướng chính xác, trung thực và minh bạch hơn. Nhưng doanh nghiệp có làm theo đề nghị đó hay không lại là chuyện khác.

Các bản báo cáo tài chính “đã kiểm toán” hiện được coi là một nguồn thông tin quan trọng về tình hình hoạt động của doanh nghiệp mà nhà đầu tư có thể tiếp cận. Nhiều nhà đầu tư tin rằng, hầu hết các báo cáo tài chính đều phản ánh trung thực, chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp do đã vượt qua “rào chắn ” kiểm soát số liệu tài chính là các công ty kiểm toán. Bởi vậy, chúng nghiễm nhiên trở thành một cơ sở quan trọng để họ đánh giá tình hình kinh doanh của doanh nghiệp và ra quyết định đầu tư. Tuy nhiên, trên thực tế, chất lượng của các bản báo cáo tài chính hiện nay chưa thực sự đáng tin tưởng, mặc dù chúng đều được gắn mác “đã kiểm toán”. Điểm neoSự kiện Công ty Cổ Phần Bông Bạch Tuyết là một ví dụ minh chứng cho trường hợp báo cáo tài chính đã được gắn mác "đã kiểm toán" để chúng ta phải suy nghĩ. Rất nhiều mục hồi tố điều chỉnh trong báo cáo tài chính năm 2007, kết quả kinh doanh của Công ty đã bị thay đổi hoàn toàn so với báo cáo tài chính có kiểm toán 2006.

Như vậy, ý kiến của Kiểm toán viên và của Công ty kiểm toán về báo cáo tài chính có ảnh hưởng đến quyền lợi của nhiều phía. Trường hợp ý kiến đưa ra thiếu chính xác, nhà đầu tư vẫn là người hứng chịu nhiều thiệt thòi nhất. Bởi vì, không phải nhà đầu tư nào cũng có đủ năng lực để xem và hiểu rõ được thuyết minh báo cáo tài chính và đánh giá được các điểm quan trọng của các điểm ngoại trừ trong báo cáo của Kiểm toán viên, thậm chí, hiểu rõ báo cáo của kiểm toán viên thì với hàng loạt yếu tố ngoại trừ trong báo cáo tài chính như vậy, nhà đầu tư cũng không hoàn toàn đủ thông tin để đánh giá được thực chất hoạt động doanh nghiệp để ra quyết định đầu tư đúng đắn. Việc hồi tố báo cáo tài chính làm thay đổi hoàn toàn kết quả kinh doanh của công ty như thế, ngoài bài học kinh nghiệm đối với nhà đầu tư nên xem xét kỹ báo cáo tài chính trước khi  đưa ra quyết định đầu tư, thì điều này cũng gây ra một tâm lý tiêu cực đối với nhà đầu tư tham gia thị trường, làm họ phải thận trọng, nghi ngờ hơn đối với các kết quả kinh doanh của các công ty niêm yết có báo cáo tài chính đã kiểm toán. Liệu trong số các báo cáo tài chính có kiểm toán đã công bố của các Công ty niêm yết trên 2 sàn giao dịch hiện nay, có công ty nào lại lặp lại "vết xe đổ" này không?

Mặt khác, ý kiến của kiểm toán viên và của công ty kiểm toán còn tác động không nhỏ đến cơ quan quản lý, với bản thân công ty kiểm toán, với cổ đông, với các nhà cung cấp tín dụng vv... làm mất lòng tin của thị trường vào tính cẩn trọng, xác thực của báo cáo kiểm toán. Chẳng hạn, đối với cơ quan quản lý thị trường, với ý kiến bao gồm các điểm ngoại trừ trọng yếu như vậy trong báo cáo kiểm toán, việc đánh giá số liệu tài chính, tình hình kinh doanh của doanh nghiệp sẽ hoàn toàn không chính xác. Việc cung cấp các thông tin minh bạch của các tổ chức niêm yết một cách công khai, kịp thời đồng thời cũng là trách nhiệm của cơ quan quản lý.

 

3. Giải pháp nâng cao chất lượng ý kiến kiểm toán viên trong báo cáo kiểm toán

Để nâng cao chất lượng báo cáo kiểm toán, phục hồi lòng tin của các nhà đầu tư và của cả xã hội, bảo đảm tính công khai và minh bạch, tính chính xác của báo cáo tài chính đã được kiểm toán, cần áp dụng một số giải pháp sau:  

Thứ nhất, nâng cao đạo đức nghề nghiệp và đạo đức con người của kiểm toán viên:

Trong những năm gần đây, việc nhiều Công ty bị phá sản do lỗi của Công ty kiểm toán không còn xa lạ. Sở dĩ có tình trạng này là do một nguyên nhân hết sức quan trọng, không giải quyết được các xung đột lợi ích trong quá trình hành nghề, một vấn đề thuộc lĩnh vực đạo đức của người hành nghề kiểm toán. Các kiểm toán viên là người được đặt niềm tin lớn nhất của những nhà đầu tư, nhà quản lý, các tổ chức, cá nhân… quan tâm đến báo cáo kiểm toán. Thực hiện vai trò quan trọng của mình, kiểm toán viên cần đưa ra kết luận chính xác, rõ ràng, trung thực về những gì mà họ đã thực hiện. Kiểm toán viên cần trau dồi kinh nghiệm, trình độ để tự tin vào khả năng của bản thân hơn, dám chịu trách nhiệm về những kết luận mà mình đưa ra. Một khi đã gắn trách nhiệm với từng cá nhân thì tinh thần trách nhiệm sẽ được nâng cao rõ rệt, kết quả là những kết luận trên báo cáo kiểm toán sẽ có giá trị hơn, tin cậy hơn. Để có thể nêu lên ý kiến khách quan của mình, kiểm toán viên cần trau dồi tu dưỡng đạo đức nghề nghiệp và hơn nữa, tu dưỡng đạo đức con người vì hơn ai hết, con người có nhân cách, có đạo đức sẽ không vì bất kỳ một áp lực nào để bóp méo sự thật.

Thứ hai, cần tách biệt các mối quan hệ trong quá trình kiểm toán: 

Một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính thực hiện với một khách thể kiểm toán được thực hiện bởi một nhóm Kiểm toán viên với quy mô khoảng 4 người, dưới sự chỉ đạo của Trưởng nhóm. Để tin cậy hơn với các kết luận báo cáo kiểm toán tài chính của Kiểm toán viên cần phải tách biệt ngay từ khi bắt đầu cuộc kiểm toán các chủ thể kiểm toán với khách thể kiểm toán nhằm mục đích tránh, giảm các mối quan hệ bất thường ảnh hưởng trực tiếp tới các kết luận trên báo cáo kiểm toán. Sự tách biệt ở đây được hiểu là sự tách biệt cả về giao tiếp, địa lý vv...

Thứ ba, kiểm toán viên cần nêu rõ trách nhiệm của mình đối với ý kiến ngoại trừ:

Không thể phủ nhận độ tin cậy của kết luận kiểm toán đã nêu trong phần kết luận của báo cáo kiểm toán, nhưng Kiểm toán viên cần khẳng định rõ trách nhiệm kết luận của mình với phần các yếu tố có thể phát sinh trong tương lai. Tuy như đã nói, những yếu tố ảnh hưởng nếu có phát sinh trong tương lai thực sự rất khó kiểm soát nhưng so về khả năng phân tích và dự đoán khả năng xảy ra của các sự kiện đó thì Kiểm toán viên là người có khả năng hơn so với các nhà quản lý. Nhận thấy được vai trò của mình, Kiểm toán viên cần hỗ trợ các nhà quản lý về mặt dự báo, dự đoán các rủi ro mà các vấn đề hiện tại có thể gây ra trong tương lai, giúp các nhà quản lý tránh được nhưng thiệt hại đồng thời nâng cao giá trị của kết luận trong báo cáo kiểm toán.

Thứ tư, nâng cao chất lượng đội ngũ Kiểm toán viên và hệ thống kiểm soát chất lượng kiểm toán:

Các cơ quan chủ quản, các công ty kiểm toán và các tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán cần thực hiện thường xuyên các khóa đào tạo và bồi dưỡng, cuối mỗi khóa cần tổ chức kiểm tra, viết thu hoạch và sử dụng kết quả này để đánh giá Kiểm toán viên. Bên cạnh đó định kỳ cần tổ chức các kỳ thi về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho kiểm toán viên; phối hợp với các tổ chức khác để đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho kiểm toán viên. Mặt khác, phải thường xuyên kiểm soát chất lượng hoạt động kiểm toán, có thể thành lập Ban kiểm soát chất lượng kiểm toán để thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát việc tuân thủ các chuẩn mực, qui trình, kế hoạch kiểm toán cũng như có thể kiểm toán lại một số báo cáo tài chính đã được kiểm toán  nếu cần.

Trên đây là một số ý kiến về ý kiến của Kiểm toán viên và của Công ty kiểm toán về báo cáo tài chính đã được kiểm toán ở Việt Nam. Có thể khẳng định rằng, trong thời gian qua hoạt động kiểm toán ở nước ta đã có những thành tựu đáng kể về các mặt: phạm vi, nội dung, chất lượng kiểm toán, ... Những kết quả này đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, xă hội, làm lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, hoạt động kiểm toán cũng còn nhiều tồn tại cả về lý luận và thực tiễn. Những tồn tại này nếu không được khắc phục sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng kiểm toán, mong muốn rằng, trong thời gian tới, báo cáo tài chính của các đơn vị sau khi được các công ty kiểm toán và có ý kiến của kiểm toán viên sẽ bảo đảm tính "trung thực và hợp lý" cả về nghĩa đen và nghĩa bóng, góp phần khôi phục lòng tin của các nhà đầu tư và của xã hội, tăng cường được tính công khai và minh bạch của các công ty, góp phần đưa thị trường chứng khoán non trẻ của chung ta đi vào quĩ đạo. 

 

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Tài chính - Quyết định số 120/1999/QĐ-BTC ngày 27 tháng 9 năm 1999 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành và công bố 4 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam.

2. Bộ Tài chính - Thông tư số 64/2004/TT-BTC ngày 29/6/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 của Chính phủ về kiểm toán độc lập.

3. GS. TS. Nguyễn Quang Quynh - TS. Ngô Trí Tuệ (2006) - Giáo trình Kiểm toán Tài chính - NXB Đại học Kinh tế Quốc dân. 

4. GS. TS. Nguyễn Quang Quynh - TS. Nguyễn Thị Phương Hoa (2008) - Giáo trình Lý thuyết Kiểm toán - NXB Tài chính.  

5. http://www.hse.org.vn/

6.http://www.ssc.gov.vn/ssc/Detail.aspx?tabid=950&ItemID=37545

7. http://www.hsx.vn/

8. http://vneconomy.vn/home.htm

9. Các bộ báo cáo tài chính của các công ty cổ phần niêm yết đã kiểm toán.

10. V.v...

Lượt xem: 1

Kiểm toán nhà nước trước những cơ hội và thách thức của kinh tế số và Chính phủ số

Bản chất cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là cuộc cách mạng số, chuyển đổi số để chuyển hóa toàn bộ thế giới thực (thế giới vật lý) thành thế giới số (thế giới ảo), hay nói cách khác, mọi thực thể của thế giới thực đều có phiên bản thế giới số và dùng thế giới số này để điều hành trở lại thế giới thực từ đó làm cho công tác quản trị kinh tế - xã hội từ sản xuất đến tiêu dùng hiệu quả hơn, tốt hơn và thông minh hơn. Ý tưởng bao trùm của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 là kết nối, hợp tác và chia sẻ. Vì vậy, phải tăng cường hợp tác giữa các cơ quan Chính phủ với nhau; giữa Chính phủ với doanh nghiệp, người dân; giữa người dân với nhau; giữa các đơn vị trong cùng một ngành, một địa phương, giữa trong nước với ngoài nước. Việt Nam không thể đứng ngoài cuộc cách mạng này. Chúng ta không chỉ giải quyết những “bài toán” của nội bộ đơn vị, quốc gia mình mà còn có trách nhiệm trước những vấn đề chung của thế giới. Chuyển đổi số là cuộc chuyển đổi toàn diện từ không gian thực lên không gian số, cho phép đưa toàn bộ hoạt động lên không gian số. Cuộc dịch chuyển này diễn ra với tốc độ nhanh chóng theo ba trụ cột: Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số = xã hội thông minh. 1. Kinh tế số và Chính phủ số 1.1. Kinh tế số Nền kinh tế số (digital economy) là nền kinh tế mà các mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của nó dựa trên ứng dụng công nghệ số, được ứng dụng từ trong quá trình sản xuất, phân phối đến tiêu dùng. Công nghệ số bao gồm các công cụ chính của Cách mạng công nghiệp 4.0 như: Cloud Computing (điện toán đám mây), Big data (dữ liệu lớn), IoT (Internet kết nối vạn vật), AI (trí tuệ nhân tạo), Robot, Blockchain (công nghệ chuỗi khối)... Kinh tế số với những đặc trưng như: i) Được tập hợp trong 3 quá trình xử lý chính đan xen với nhau, bao gồm: xử lý vật liệu, xử lý năng lượng và xử lý thông tin. Trong đó, xử lý thông tin đóng vai trò quan trọng nhất và cũng là lĩnh vực dễ số hóa nhất; ii) Tính kết nối/siêu kết nối giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào các thành tựu của công nghệ thông tin và IoT giúp kết nối hóa các nguồn lực, lược bỏ nhiều khâu trung gian và tăng cơ hội tiếp cận chuỗi giá trị toàn cầu. Kinh tế số không chỉ tạo ra quy mô và tốc độ tăng trưởng cho các nền kinh tế, mà còn làm các nền kinh tế thay đổi trên 2 bình diện: (i) Phương thức sản xuất (nguồn lực, hạ tầng, cách thức vận hành sản xuất kinh doanh); (ii) Cơ cấu kinh tế. Trong đó, đáng chú ý là bên cạnh các nguồn lực truyền thống xuất hiện nguồn lực phát triển mới là tài nguyên số, của cải số. Thực tế cho thấy, kinh tế số giúp tăng trưởng bền vững hơn, xanh hơn bởi công nghệ số sẽ mang lại những giải pháp tốt, hiệu quả hơn đối với việc sử dụng tài nguyên, xử lý các vấn đề ô nhiễm môi trường… Phát triển kinh tế số là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mô hình kinh doanh mới, tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch vụ số cho doanh nghiệp, với sự hội tụ của các công nghệ mới trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Trong nền kinh tế số, các doanh nghiệp sẽ đổi mới quy trình sản xuất, kinh doanh sang mô hình theo hệ sinh thái, liên kết từ khâu sản xuất, thương mại đến sử dụng... và góp phần tăng năng suất lao động. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra và chấp nhận các mô hình kinh doanh mới, các công nghệ mới để thay đổi nền kinh tế như Fintech (công nghệ tài chính), EdTech (công nghệ giáo dục), healthtech (công nghệ y tế), Ad Tech (công nghệ quảng cáo), AgriTech (công nghệ nông nghiệp), Cultech (công nghệ văn hóa)… X.Tech. Các X.Tech này, thường là sự sáng tạo mang tính phá hủy cái cũ để tạo ra cái mới tốt hơn, rẻ hơn thông minh hơn. Công nghệ số cho phép mọi giao dịch thông qua IoT, Fintech và dữ liệu lớn do đó công tác quản lý, điều hành, kiểm tra, kiểm toán, giám sát nền kinh tế phải thay đổi và thích ứng với công nghệ số. Các thành phần kinh tế số bao gồm các thành phần ẩn và thành phần hiện: - Các thành phần kinh tế số ẩn bao gồm cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin kèm theo như phần cứng, phần mềm, hệ thống mạng… - Các thành phần kinh tế số hiện bao gồm kinh doanh trực tuyến (e-business) và thương mại điện tử (e-commerce). Bức tranh đan xen giữa kinh tế số và kinh tế truyền thống càng ngày trở nên rõ nét hơn. Kinh tế số không đơn thuần là chuyển dịch từ kinh doanh trực tiếp mặt đối mặt (face to face) sang trực tuyến (online). Kinh tế số là chuyển hóa mọi mặt đời sống kinh tế từ tương tác đến các giao dịch và nó thúc đẩy sự sáng tạo trong nền kinh tế từ sản xuất đến tiêu dùng, đặc biệt tác động đến hệ thống ngân hàng ở những điểm sau đây: - Mô hình ngân hàng số hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ thông tin thông qua các thiết bị số kết nối với các phần mềm máy tính qua mạng Internet trên thực tế đã, đang và sẽ làm thay đổi toàn bộ cấu trúc hệ thống ngân hàng và cung cấp nhiều dịch vụ hiện đại của hệ thống ngân hàng. - Những sản phẩm dịch vụ tài chính mới như M-POS, internet banking, mobile banking, công nghệ thẻ chip, ví điện tử… ngày càng phát triển mạnh, tạo thuận lợi cho người dân trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiết kiệm chi phí giao dịch phi văn phòng tiến tới chi phí giao dịch bằng 0. - Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ làm thay đổi hoàn toàn kênh phân phối và các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống và trải nghiệm khách hàng đang dần trở thành xu hướng vượt trội. - Smartphone đã thay đổi cách con người giao tiếp và tương tác, kéo theo sự thay đổi trong kênh phân phối, mạng lưới bán hàng và cách thiết kế sản phẩm dịch vụ của các ngân hàng. Kênh bán hàng qua Internet, mobile banking, tablet banking, mạng xã hội, phát triển ngân hàng kỹ thuật số, giao dịch không giấy tờ là xu thế phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt, việc sử dụng các công nghệ như giao tiếp qua web (web-chat) và Skype ngày càng nhiều hơn. - Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng sẽ tạo ra những bước tiến mới trong thay đổi cách giao tiếp và xử lý nghiệp vụ thông qua tương tác và giao tiếp điện tử. - Robot sẽ đảm nhiệm việc quản lý danh mục rủi ro, quản lý khách hàng, quản lý cơ sở dữ liệu, danh mục đầu tư... Do đó, nếu kinh tế Việt Nam làm chủ được các công nghệ này, thì không những tăng chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm toán mà còn tăng năng suất lao động lên nhiều lần. 1.2. Chính phủ số Để quản lý kinh tế số phải xây dựng Chính phủ số tương thích với nó. Chính phủ số là Chính phủ hoạt động an toàn trên môi trường số, có mô hình được vận hành hoàn toàn dựa trên dữ liệu và công nghệ số, nhằm cung cấp dịch vụ chất lượng hơn, đưa ra quyết định kịp thời hơn, ban hành chính sách tốt hơn, sử dụng nguồn lực tối ưu hơn, kiến tạo, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, đồng thời giải quyết hiệu quả các vấn đề lớn trong sự phát triển, quản lý kinh tế - xã hội. Chính phủ số là Chính phủ quản lý kinh tế - xã hội hoàn toàn dựa trên dữ liệu số và công nghệ số, nhằm cung cấp dịch vụ công nhanh hơn, chất lượng hơn và hiệu quả hơn. Đặc điểm của Chính phủ số Thước đo chính của Chính phủ số là số lượng dịch vụ hành chính công giảm, số lượng dịch vụ công mới, sáng tạo phục vụ xã hội tăng lên nhờ công nghệ và dữ liệu số. Chính phủ điện tử là tin học hóa các quy trình hiện có, còn Chính phủ số là cung cấp các dịch vụ mới theo nhu cầu người dân và doanh nghiệp. Khác biệt cốt lõi của Chính phủ số, đó là sử dụng dữ liệu để ra quyết định và coi dữ liệu như là một loại tài nguyên mới, đó là chuyển đổi về cách thức ra quyết định của cơ quan chính quyền dựa trên các báo cáo bản giấy sang dựa trên dữ liệu phân tích, định lượng và tổng hợp từ nhiều nguồn dữ liệu khác nhau nhờ AI. Đó là sự kết nối và chia sẻ dữ liệu của các cơ quan nhà nước để người dân chỉ cần cung cấp thông tin một lần cho cơ quan nhà nước. Các doanh nghiệp cộng đồng có thể sử dụng dữ liệu này để cung cấp thêm các dịch vụ mới. Hiểu một cách đơn giản, Chính phủ điện tử thì chủ yếu là sử dụng công nghệ thông tin. Còn Chính phủ số thì sử dụng công nghệ số, đặc biệt là công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Thực chất, Chính phủ số là Chính phủ điện tử nhưng có thêm “4 Có”, bao gồm: Có toàn bộ hoạt động an toàn trên môi trường số, Có khả năng cung cấp dịch vụ mới nhanh chóng, Có khả năng sử dụng nguồn lực tối ưu và Có khả năng kiến tạo phát triển, dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia, giải quyết hiệu quả những vấn đề lớn trong phát triển và quản lý kinh tế - xã hội. 2. Những cơ hội, thuận lợi và thách thức đối với Kiểm toán nhà nước trong kinh tế số và Chính phủ số 2.1. Những cơ hội và thuận lợi Tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20% GDP, phát triển được một cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam lớn mạnh. Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm 50 nước dẫn đầu về Chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển kinh tế số, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 10%; đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP. Chính phủ số, kinh tế số và xã hội số tiến tới xã hội thông minh là xu thế tất yếu của thế giới nói chung trong đó có Việt Nam. Do đó, đòi hỏi Kiểm toán nhà nước cũng phải thay đổi phương thức kiểm toán truyền thống dựa trên văn bản giấy tờ sang kiểm toán trong môi trường số, kiểm toán trực tuyến. Đây vừa là cơ hội và cũng chính là thách thức đối với Kiểm toán nhà nước, đòi hỏi Kiểm toán nhà nước phải nỗ lực xây dựng lộ trình chuyển đổi số phù hợp để thích ứng kịp thời với xu hướng này, nếu không nói là phải tiên phong đi trước. Cùng với Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ thay đổi cơ bản phương thức thực hiện các công việc kế toán - kiểm toán hiện nay bằng việc áp dụng chứng từ điện tử, các phần mềm tổng hợp, xử lý dữ liệu, ghi sổ kế toán cũng như cho phép thực hiện các phương thức kiểm toán trong môi trường tin học hóa. Những người làm công tác tài chính - kế toán sẽ không còn mất quá nhiều công sức trong việc phân loại chứng từ, xử lý từng nghiệp vụ kinh tế riêng lẻ, ghi các loại sổ kế toán mà vấn đề quan trọng hơn là cần phải quan tâm đến việc trình bày báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán quốc tế IFRS. Cách mạng công nghiệp 4.0 đưa đến những thay đổi to lớn đến công tác kế toán do đó lĩnh vực kiểm toán cũng phải thay đổi tương ứng. Hiện nay, nhiều phần mềm 4.0 đã được áp dụng rộng rãi và hiệu quả trong quá trình kiểm toán tại các công ty kiểm toán Big4 và một số công ty kiểm toán là thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế trong lập hồ sơ và thực hiện các thủ tục kiểm toán. Học máy là sự giao thoa giữa thống kê cổ điển với khoa học máy tính. Một mục tiêu quan trọng của ngành học máy là làm sao để máy tính thông minh hơn, có khả năng học hỏi và hình thành tri thức một cách tự động từ kinh nghiệm và trở nên hữu ích hơn trong giao tiếp với con người. Học máy có một vai trò quan trọng với mọi Chính phủ trên toàn cầu, trong việc phân tích và dự báo dữ liệu thông tin quốc gia, từ kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh tới y tế, văn hóa - giáo dục, môi trường… Kiểm toán nhà nước có cơ hội sử dụng nguồn dữ liệu mở vô tận này trong hoạt động kiểm toán thông qua học máy. Dữ liệu luôn được thu thập liên tục bằng rất nhiều phương tiện trong từng giây. Những bộ dữ liệu quý giá này sẽ được xử lý bởi hệ thống học máy và trí tuệ nhân tạo. Thông tin sau khi xử lý, phân tích chính xác và đưa ra những chỉ báo hiệu quả những kết luận chính xác đáng tin cậy sẽ mang lại rất nhiều giá trị và lợi thế cho Kiểm toán nhà nước nói riêng và quốc gia đó nói chung. Bởi vậy, Kiểm toán nhà nước phải kết nối được với các đối tượng kiểm toán. Nhiều cơ quan quản lý nhà nước đã kết nối tới các đối tượng quản lý, đã có công cụ giám sát thì kiểm toán chỉ cần kết nối tới các đơn vị quản lý nhà nước này là được. Chuyển đổi số thì sẽ làm được việc kiểm toán online, toàn diện. Kiểm toán trên môi trường số thì phải dùng công nghệ số. Kiểm toán nhà nước vì thế mà phải dùng công nghệ 4.0 nhiều hơn. Các dữ liệu tài chính xử lý qua học máy sẽ giúp kiểm toán viên dự báo các dữ liệu tương lai và từ đó, nắm được quy luật vận động của dòng tiền, xử lý số liệu báo cáo tài chính sẽ phát hiện được những điều bất thường không đảm bảo tính logic để hướng kiểm toán viên chú ý vào những điểm rủi ro có tính trọng yếu. Blockchain Blockchain là một cơ sở dữ liệu phân cấp lưu trữ thông tin trong các khối (block) thông tin được liên kết chuỗi (chain) với nhau bằng mã hóa và mở rộng theo thời gian. Mỗi khối thông tin đều chứa thông tin về thời gian khởi tạo và được liên kết tới khối trước đó, kèm một mã thời gian và dữ liệu giao dịch. Blockchain được thiết kế để chống lại việc thay đổi của dữ liệu: Một khi dữ liệu đã được mạng lưới chấp nhận thì sẽ không có cách nào thay đổi được nó. Blockchain được đảm bảo nhờ cách thiết kế sử dụng hệ thống tính toán phân cấp với khả năng chịu lỗi byzantine cao (lỗi byzantine xảy ra khi một hoặc nhiều thành phần của hệ thống không hoạt động chính xác hoặc có ý đồ gian lận bằng cách gửi thông tin sai lệch cho các thành phần khác trong mạng lưới). Vì vậy, sự đồng thuận phân cấp có thể đạt được nhờ blockchain. Do đó, blockchain phù hợp để ghi lại những sự kiện, hồ sơ y tế, xử lý giao dịch, công chứng, danh tính và chứng minh nguồn gốc. Việc này có tiềm năng giúp xóa bỏ các hậu quả lớn khi dữ liệu bị thay đổi trong bối cảnh thương mại toàn cầu nói chung và hoạt động kiểm toán nói riêng, bởi bằng chứng kiểm toán là vô cùng quan trọng. Blockchain được xem như “sổ cái kỹ thuật” lưu trữ toàn bộ thông tin, giao dịch và đều được mã hóa. Và điều rất hay bởi nó là cuốn sổ cái mở và vô hạn. Đó là bất cứ người nào nằm trong mạng ngang hàng đều có thể xem thông tin tuy nhiên không ai có thể thay đổi thông tin đã được mã hóa đã được đưa vào các khối. Sử dụng blockchain là để lưu trữ và xác nhận việc trao đổi đồng tiền thuật toán hay còn gọi là tiền ảo. Kiểm toán viên khi làm chủ được công nghệ blockchain sẽ sở hữu một kho dữ liệu khổng lồ tin cậy và chính xác để làm bằng chứng kiểm toán vô cùng thuyết phục. Nhờ có hệ thống mạng không dây, công nghệ số hóa cùng các ứng dụng, thiết bị tiên tiến giúp thu thập, xử lý thông tin là công cụ đắc lực cho Kiểm toán viên nhà nước có cơ hội học hỏi, tiếp cận và thực hiện công việc mà không bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý. Kiểm toán viên nhà nước sẽ không tốn quá nhiều thời gian và công sức cho việc xử lý, phân loại các chứng từ để chú trọng vào việc trình bày và phân tích báo cáo tài chính theo chuẩn mực và kiểm toán viên đọc và phân tích báo cáo tài chính. Vì vậy, các Kiểm toán viên nhà nước không những cần có kiến thức về tài chính kế toán mà cần phải am hiểu và sử dụng thành thạo các công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0. 2.2. Thách thức Có thể khái quát hiện nay Kiểm toán nhà nước và Kiểm toán viên nhà nước có 3 thách thức lớn bao gồm (i) thách thức về chuyên môn, nghiệp vụ, đặc điểm nghề nghiệp; (ii) thách thức về đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử và bản lĩnh nghề nghiệp; (iii) và thách thức trước cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình chuyển đổi số trong đó có kinh tế số và Chính phủ số. Hệ thống pháp luật đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, do đó có những mâu thuẫn, chồng chéo, có những điều luật không phải lúc nào cũng tường minh gây khó khăn cho Kiểm toán viên nhà nước khi áp dụng. Thiếu hiểu biết pháp luật toàn diện, hiểu không đầy đủ, không cặn kẽ cũng có thể khiến chính mình trở thành người phạm tội. Cho nên, ai hợp, ai có duyên, ai thấy cái hay của nghề kiểm toán, như làm nghề bác sỹ khám bệnh cứu người phòng tránh bệnh tật, để cho cơ thể phát triển lành mạnh, thì mới có thể ở lại với ngành này. Nghề này yêu cầu “Công minh, chính trực, nghệ tinh, tâm sáng”. Những người làm nghề kiểm toán phải rất am hiểu pháp luật và giỏi nghề kiểm toán, lĩnh vực mình kiểm toán. Bởi theo lẽ thường, muốn phán xét người khác trước hết mình phải đủ tư cách và giỏi về chuyên môn. Chỉ có như vậy, những kiến nghị kiểm toán mới có lý, có tình, mới làm cho khách thể được kiểm toán tâm phục, khẩu phục, và cũng vì thế mà họ mới thành tâm sửa lỗi, mới biết ơn Kiểm toán nhà nước đã chỉ ra cho họ thấy sai mà sửa. Phải phấn đấu làm sao để khách thể kiểm toán khi chưa tiếp xúc với Kiểm toán nhà nước nói chung và Kiểm toán viên nhà nước nói riêng người ta còn có tâm lý “ngại”, khi tiếp xúc rồi người ta cảm thấy “khoái” và đến lúc chia tay người ta mong ngày được gặp lại. Kiểm toán nhà nước phải góp phần hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật. Hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn đang tiếp tục hoàn thiện, nhiều cái chưa theo kịp cuộc sống. Mỗi cuộc kiểm toán, phải luôn xem hệ thống pháp luật khi áp dụng vào cuộc sống có tồn tại gì, có bất cập gì không hay còn kẽ hở nào không. Và trong kiến nghị kiểm toán, ngoài việc kiến nghị xử lý tài chính, quan trọng hơn là những kiến nghị sửa đổi, hoàn thiện thậm chí bãi bỏ những cơ chế, quy định, những quy phạm pháp luật trái Hiến pháp, trái luật, chồng chéo, mâu thuẫn, hay kẽ hở cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội làm thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước. Đó là đóng góp lớn nhất, quan trọng nhất và có ý nghĩa nhất của Kiểm toán nhà nước, Kiểm toán viên nhà nước qua đó giúp chúng ta giữ được “của” và cũng giữ được “người”, làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn và nhân văn hơn. Kiểm toán nhà nước cần phải tập trung vào các vấn đề nóng, tham nhũng, lãng phí, thất thoát, tiêu cực của nền kinh tế gây bức xúc cho xã hội. Nghĩa là kiểm toán phải làm những việc khó, không phải chỉ làm cái dễ sẽ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân đánh giá cao và ghi nhận. Do đó, Kiểm toán nhà nước phải tăng cường thực hiện nhiều cuộc kiểm toán hoạt động hơn, trên cơ sở ứng dụng những thành quả của Cách mạng công nghiệp 4.0. Do đó, một thách thức lớn đối với Kiểm toán nhà nước nói chung và Kiểm toán viên nhà nước nói riêng là phải làm chủ được các công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 mới hoàn thành tốt nhiệm vụ trong bối cảnh kinh tế số và Chính phủ số. Công việc việc kiểm toán ngày càng nhiều, biên chế không được tăng, thậm chí yêu cầu ngày càng tinh gọn. Vậy Kiểm toán nhà nước phải làm thế nào? Phải sử dụng công nghệ nhiều hơn, phải tự động hóa một số khâu tiến tới tự động hóa hoàn toàn bằng công nghệ số, phải biết cách tìm ra nhanh nhất cái cốt lõi, cái bản chất của các sự việc và hiện tượng. Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ cung cấp cho Kiểm toán nhà nước nhiều công cụ hữu ích đặc biệt là trợ lý ảo (AI chatbot) để hỗ trợ trong công tác chuyên môn; xây dựng cơ sở dữ liệu về các cuộc kiểm toán chuẩn, để làm tiền lệ như “án lệ” bên tòa án. Con người chúng ta không có cách nào đua được với người máy về năng suất lao động, thời gian làm việc và độ chính xác. Các tri thức của kiểm toán phải được chắt lọc qua các cuộc kiểm toán hằng quý, hằng năm và đưa vào hệ thống tri thức của Kiểm toán nhà nước, mà biểu hiện của nó là các mẫu thông tin, dữ liệu dưới dạng số hóa. Kiểm toán mỗi năm phải hệ thống hóa lại những phát hiện mới, tri thức mới, lập trình tri thức này vào nền tảng làm việc số, tự động hóa, dùng công nghệ hỗ trợ, để tiến hành kiểm toán bằng các phần mềm, có như vậy mới làm tăng năng suất lao động. Việc chuyển đổi sang Chính phủ số là chuyển các hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm toán của cơ quan nhà nước lên môi trường số. Nếu như trước đây, việc kiểm tra, kiểm toán được thực hiện trực tiếp tại các đơn vị, doanh nghiệp theo cách truyền thống, thì bây giờ, với Chính phủ số, các cơ quan chức năng sẽ thanh tra, kiểm tra, kiểm toán trực tuyến thông qua hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu đã kết nối mà không cần đến cơ quan, đơn vị được kiểm toán. Mục tiêu đến năm 2025 là có 50% hoạt động kiểm tra của cơ quan nhà nước được thực hiện từ xa trên môi trường số. Và công tác kiểm toán cũng không phải là ngoại lệ, đây quả thực là một thách thức lớn đối với Kiểm toán nhà nước. Với sự tiến bộ vượt bậc của Cách mạng công nghiệp 4.0 đã tạo ra những thách thức đối với Kiểm toán nhà nước đó là: Nền kinh tế số; Chính phủ số; big data; đồng tiền ảo; robot với trí tuệ nhân tạo có thể thay thế công việc của kiểm toán viên; tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến khách thể kiểm toán... Muốn kiểm toán trong môi trường công nghệ số, các thách thức lớn mà Kiểm toán nhà nước phải đối mặt là: hoàn thành số hóa dữ liệu; xây dựng và làm chủ hạ tầng số; đảm bảo an ninh an toàn mạng và bảo mật thông tin dữ liệu kiểm toán và có Kiểm toán viên nhà nước 4.0… 3. Các giải pháp để Kiểm toán nhà nước thích ứng với kinh tế số và Chính phủ số Thứ nhất, xây dựng và làm chủ hạ tầng số. Xây dựng hạ tầng kỹ thuật số, để kết nối và chia sẻ dữ liệu đóng vai trò quyết định trong chuyển đổi số của Kiểm toán nhà nước. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, hạ tầng viễn thông sẽ chuyển dịch thành hạ tầng kỹ thuật số bao gồm hạ tầng viễn thông và điện toán đám mây, để ứng dụng hiệu quả các công nghệ số vào hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Điều này đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn, sự đồng bộ về quy hoạch, đầu tư để đảm bảo tính đồng bộ và tương thích do sự đa dạng và phức tạp giữa các hệ thống hiện có và quy trình hành chính của Kiểm toán nhà nước, cần có quy trình và chuẩn mực chung, đầu tư xây dựng và làm chủ hạ tầng kỹ thuật số để có thể kết nối, chia sẻ dữ liệu nguồn mở khổng lồ của Kiểm toán nhà nước, của quốc gia và thế giới. Cần khẩn trương để có thể từng bước nâng cấp, chuyển đổi sang nền tảng điện toán đám mây (với các mô hình triển khai đám mây công cộng, đám mây dùng riêng, đám mây lai) và IoT để nhanh chóng áp dụng các thành tựu của các công cụ công nghệ số vào hoạt động của Kiểm toán nhà nước. Thứ hai, khẩn trương số hóa tài liệu liên quan đến hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Hiện nay, Kiểm toán nhà nước đã số hóa hồ sơ 1.300 cuộc kiểm toán với hơn 13 triệu trang tài liệu các loại, so với số lượng tài liệu hiện có phải nói là còn khiêm tốn [1]. Do đó, cần tập trung nguồn lực để đẩy nhanh việc định danh, xác thực điện tử và xây dựng cơ sở dữ liệu mở dùng chung như các tài liệu về chuyên môn kiểm toán, bao gồm quy trình, chuẩn mực, phương pháp kiểm toán chung và các lĩnh vực chuyên sâu (doanh nghiệp, đơn vị hành chính, sự nghiệp, các tổ chức tín dụng ngân hàng, đầu tư dự án, môi trường…) các loại hình kiểm toán; các hồ sơ báo cáo kiểm toán; kết nối với nhiều nguồn dữ liệu mở khác nhau phục vụ cho hoạt động kiểm toán để chia sẻ giữa Kiểm toán nhà nước với các đơn vị được kiểm toán và các chủ thể kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Xây dựng dữ liệu nguồn mở dùng chung phục vụ tích hợp cũng như chia sẻ dữ liệu giữa các đơn vị, kiểm toán viên trong Kiểm toán nhà nước và với các đơn vị được kiểm toán và các cơ quan nhà nước có liên quan. Cơ sở dữ liệu nguồn mở này bao gồm hệ thống luật pháp, các quy phạm pháp luật liên quan đến hoạt động kiểm toán; quy trình, chuẩn mực, phương pháp kiểm toán; hướng dẫn kiểm toán; đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử của Kiểm toán viên nhà nước; báo cáo kiểm toán của tất cả các cuộc kiểm toán của Kiểm toán nhà nước từ khi thành lập cho đến nay; kế hoạch kiểm toán; theo dõi thực hiện kiến nghị kiểm toán. Điểm quan trọng, giải pháp đột phá là sử dụng nền tảng và định hướng dữ liệu mở. Cụ thể, nền tảng số được xác định là giải pháp đột phá để thúc đẩy chuyển đổi số nhanh hơn, giảm chi phí, tăng hiệu quả. Nền tảng được tạo ra bởi những doanh nghiệp công nghệ số xuất sắc, cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng ngay dưới dạng dịch vụ thay vì phải tự đầu tư, tự vận hành. Thứ ba, xây dựng các phần mềm hỗ trợ kiểm toán Hiện nay, Kiểm toán nhà nước đã xây dựng được trên 30 phần mềm quản lý và hỗ trợ hoạt động kiểm toán; còn rất khiêm tốn, chưa đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi số. Do đó, Kiểm toán nhà nước phải tích cực xây dựng các phần mềm kiểm toán chuẩn cho các lĩnh vực và loại hình kiểm toán. Trước mắt, xây dựng được các phần mềm quản lý khách thể kiểm toán, phần mềm để lọc và chọn được các đơn vị, các vấn đề kiểm toán làm cơ sở để xây dựng kế hoạch kiểm toán hằng năm. Với sự trợ giúp của AI chatbot, dữ liệu lớn, AI, IoT, Kiểm toán nhà nước có thể tiến tới xây dựng các phần mềm kiểm toán để có thể kiểm toán 100% mà không phải chọn mẫu kiểm toán và kiểm toán hằng năm các khách thể kiểm toán nhất là các đơn vị sử dụng ngân sách nhà nước. Với trí tuệ nhân tạo giúp robot có được những trí tuệ của con người như: biết suy nghĩ và lập luận để giải quyết vấn đề, biết giao tiếp do hiểu ngôn ngữ, tiếng nói, biết học và tự thích nghi... Ưu điểm có thể làm việc 24/7/365, không cần trả lương, đóng thuế, bảo hiểm... robot càng làm việc càng thông minh, có khả năng ghi nhớ, học hỏi vô tận... Thứ tư, bảo đảm an toàn, an ninh mạng và bảo mật thông tin. Nếu coi chuyển đổi số là một vũ khí sắc bén để mở rộng không gian mạng quốc gia, thì an toàn, an ninh mạng sẽ là chiếc khiên vững chắc bảo vệ thành quả của chuyển đổi số của quốc gia nói chung và của Kiểm toán nhà nước nói riêng. An toàn, an ninh mạng và bảo mật thông tin phải song hành và trở thành một phần không thể tách rời của chuyển đổi số trong hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước. Thứ năm, đào tạo nguồn nhân lực đặc biệt là đội ngũ Kiểm toán viên nhà nước      Chuyển đổi số đòi hỏi cán bộ, công chức phải thay đổi về cả tư duy lẫn cách thức làm việc truyền thống, thủ công sang cách làm việc dựa trên công nghệ số. Điều này đòi hỏi họ phải có kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về công nghệ thông tin, Cách mạng công nghiệp 4.0 bao gồm: kỹ năng tiếp cận khai thác chia sẻ thông tin trên cơ sở hiểu biết về các hệ thống thông tin của khách thể kiểm toán và các chủ thể có liên quan; kỹ năng đảm bảo an ninh, an toàn mạng và bảo mật thông tin kiểm toán khi khai thác và tìm kiếm thông tin; kỹ năng sử dụng AI, học máy, AI Chatbot (AI chatbot là các hệ thống dựa trên phần mềm được thiết kế nhằm tương tác với người dùng thông qua phương pháp xử lý ngôn ngữ tự nhiên (NLP) và trí tuệ nhân tạo [5]; Chatbot thường được gọi là trợ lý ảo) để phân tích dữ liệu. Việc đào tạo và phát triển nhân lực để có đủ nguồn nhân lực chất lượng và đáp ứng yêu cầu của kinh tế số và Chính phủ số là việc làm cấp bách trước mắt cũng như lâu dài và phải được ưu tiên trong giai đoạn hiện nay. Nhưng nên nhớ rằng, công nghệ thông tin tập trung vào người viết phần mềm, do đó các tổ chức tập trung vào việc đi tìm người giỏi phần mềm. Song trong chuyển đổi số lại chú trọng tập trung vào người sử dụng phần mềm. Coi trọng vào việc đặt ra các bài toán để giải quyết các vấn đề trong hoạt động kiểm toán, quan tâm vào việc sử dụng ngay từ giai đoạn phát triển ban đầu và đóng góp cho phần mềm thông minh dần lên. Phần mềm thông minh là mục tiêu cuối cùng, và để làm được việc này thì đóng góp tri thức của người dùng có ý nghĩa quyết định. Người dùng xuất sắc thì tạo ra phần mềm xuất sắc. Do đó, Kiểm toán nhà nước cần đào tạo và rèn luyện kỹ năng cho kiểm toán viên các công cụ của Cách mạng công nghiệp 4.0. Và nếu người đứng đầu là người dùng xuất sắc điều đó thật tuyệt vời và chắc chắn chuyển đổi số sẽ thành công như mong đợi. Bởi Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đơn thuần là cuộc cách mạng về công nghệ mà còn là cuộc cách mạng về cơ chế và tư duy. Tài liệu tham khảo 1. Phạm Thị Thu Hà, Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Kiểm toán nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, Số 198-4/2024; 2. Nguyễn Đình Hòa, Cách mạng 4.0 và những vấn đề đặt ra đối với Kiểm toán viên nhà nước, Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán, Số 121-11/2017; 3. Klaus Schwab, 2016, The Fourth Industrial Revolution, 2016; World Economic Forum; 4. Mike Gault, Forget Bitcoin - What Is the Blockchain and Why Should You Care?, 2015; 5. Sidlauskiene,J, Joye,Y & Auruskeviciene.V (2023) AI-based chatbots in conversational commerce and their effects on product and price perceptions. Electron Makets 33,24 Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Đình Hòa Nguyên Q. Giám đốc Trường Đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán tháng 7/2024)

Tăng cường vai trò kiểm toán nội bộ trong quản trị dòng tiền của doanh nghiệp

Việc quản trị dòng tiền doanh nghiệp một cách hiệu quả giúp đảm bảo sự ổn định tài chính, nâng cao khả năng đáp ứng nhu cầu kinh doanh và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp. Với vai trò tuyến phòng thủ thứ ba trong doanh nghiệp, kiểm toán nội bộ là một công cụ quan trọng trong quản trị dòng tiền. Tuy nhiên, kiểm toán nội bộ có những thách thức, khó khăn khi hỗ trợ nhà quản trị trong quản trị dòng tiền. Bài viết xin được đề cập tới “Tăng cường vai trò của kiểm toán nội bộ trong quản trị dòng tiền của doanh nghiệp”.  Từ khóa: Quản trị dòng tiền, kiểm toán nội bộ. 1. Quản lý dòng tiền của doanh nghiệp Quản lý dòng tiền của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, để quản lý dòng tiền tốt, doanh nghiệp cần thực hiện các bước sau: (i) Lập kế hoạch dòng tiền: Kế hoạch dòng tiền cần được xây dựng thông qua các dự báo dựa trên các yếu tố như doanh thu, chi phí, đầu tư và các nguồn tài chính khác. Dự báo này giúp doanh nghiệp xác định nhu cầu tiền mặt trong các khoảng thời gian khác nhau. Bên cạnh việc lập dòng tiền cho hoạt động kinh doanh là hoạt động chính và chủ yếu, các doanh nghiệp cần lập dòng tiền cho các hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư. Kế hoạch tài chính không chính xác hoặc thiếu chính xác có thể dẫn đến dự báo dòng tiền không đúng và gây khó khăn trong việc quản lý tiền mặt. (ii) Theo dõi, quản lý và phân tích dòng tiền: Việc theo dõi, phân tích dòng tiền là công cụ kiểm soát vô cùng quan trọng trong quản lý dòng tiền. Doanh nghiệp cần theo dõi tất cả các khoản thu và chi để đảm bảo thông tin về dòng tiền luôn được cập nhật kịp thời, chính xác. Đối với các khoản phải thu cần giám sát, đốc thúc thu hồi công nợ. Đối với các khoản phải chi cần giám sát và kiểm soát các khoản chi phí để tránh lãng phí và tối ưu hóa việc sử dụng nguồn lực của doanh nghiệp. Đồng thời, một trong những biện pháp kiểm soát quan trọng là cần thực hiện phân tích dòng tiền thông qua so sánh dòng tiền thực tế với dự báo dòng tiền để đánh giá hiệu quả quản lý dòng tiền và xác định các vấn đề bất thường hoặc rủi ro tiềm ẩn, từ đó tìm nguyên nhân và đưa ra giải pháp phù hợp. (iii) Xác định và duy trì nguồn tiền của doanh nghiệp: Xác định và duy trì một mức dự trữ tiền mặt hợp lý để đáp ứng các nhu cầu chi phí định kỳ và cơ hội đầu tư. Đồng thời, doanh nghiệp cần xem xét các nguồn tài chính bổ sung như vay vốn ngân hàng, phát hành trái phiếu hoặc huy động vốn từ các nhà đầu tư để đáp ứng nhu cầu tài chính. (iv) Quản lý rủi ro liên quan đến dòng tiền: Doanh nghiệp còn yếu kém trong quản lý và xác định các rủi ro liên quan đến dòng tiền như rủi ro thanh khoản (thiếu hụt tiền mặt, hoặc khả năng thu hồi nợ kém), rủi ro thay đổi dòng tiền (biến động doanh thu theo mùa, chu kỳ hoặc chi phí bất ngờ, khó lường trước), rủi ro lãi suất hoặc tỷ giá hối đoái (biến động lãi suất vay/gửi; rủi ro chênh lệch tỷ giá), rủi ro kiểm soát và quản lý tài chính (kiểm soát nội bộ và quản lý chi phí không hiệu quả, hệ thống thông tin tài chính kém…);  rủi ro từ các yếu tố bên ngoài (suy thoái kinh tế hoặc khủng hoảng tài chính có thể ảnh hưởng đến doanh thu và khả năng thu hồi nợ, làm giảm dòng tiền của doanh nghiệp; hoặc các thay đổi trong chính sách tài chính, thuế hoặc quy định pháp lý có thể ảnh hưởng đến chi phí hoạt động và dòng tiền của doanh nghiệp).   (v) Đánh giá và cải thiện quy trình quản lý dòng tiền: Đánh giá hiệu quả của các biện pháp quản lý dòng tiền đã thực hiện, bao gồm việc phân tích các chỉ số tài chính và so sánh giữa số liệu thực tế với các mục tiêu đã đặt ra. Dựa trên đánh giá, thực hiện các điều chỉnh và cải tiến quy trình quản lý dòng tiền để nâng cao hiệu quả và đạt được các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp. (vi) Báo cáo và thông tin Hệ thống báo cáo thống kê quản trị dòng tiền là một công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp đánh giá và theo dõi hiệu quả quản lý dòng tiền. Đầu tiên, doanh nghiệp cần thiết kế các thông tin trong báo cáo thống kê quản trị dòng tiền. Để thực hiện điều này, doanh nghiệp cần xác định mục tiêu quản trị dòng tiền và yêu cầu thông tin cần thiết để đánh giá và quản lý dòng tiền. Điều này sẽ giúp định rõ phạm vi và nội dung của hệ thống báo cáo. Các nguồn thông tin cần thiết để tạo ra báo cáo thống kê, bao gồm hệ thống quản lý tài chính, hệ thống quản lý kho, hệ thống quản lý khách hàng, và các nguồn dữ liệu khác liên quan đến dòng tiền. Do đó, một hệ thống tích hợp dữ liệu từ các nguồn thông tin khác nhau để tạo ra báo cáo thống kê toàn diện về dòng tiền. Đặc biệt, hệ thống báo cáo cần có các chỉ số để đánh giá hiệu quả hoạt động dòng tiền như chu kỳ vòng quay tiền, tỷ suất phải thu, tỉ suất trả nợ, và lưu chuyển tiền mặt… Các báo cáo cần thiết lập hằng ngày, hằng tuần, hằng tháng và hằng quý. Báo cáo nên cung cấp thông tin một cách rõ ràng, dễ hiểu và có thể so sánh để giúp quản lý đưa ra các quyết định thông thái về quản lý dòng tiền. Quản trị dòng tiền liên quan đến việc quản lý dòng tiền ra và vào của doanh nghiệp để đảm bảo rằng doanh nghiệp có đủ tiền để duy trì hoạt động hằng ngày, thanh toán các khoản nợ đến hạn, và đầu tư vào các dự án phát triển. Quản trị dòng tiền hiệu quả giúp doanh nghiệp tránh được tình trạng thiếu hụt tiền, giảm thiểu rủi ro tài chính và tối ưu hóa việc sử dụng nguồn vốn. Trong môi trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh, việc kết hợp kiểm toán nội bộ và quản trị dòng tiền là điều cần thiết để doanh nghiệp có thể hoạt động hiệu quả, giảm thiểu rủi ro và nắm bắt cơ hội phát triển. 2. Kiểm toán nội bộ và quản trị dòng tiền của doanh nghiệp 2.1. Vai trò kiểm toán nội bộ trong quản trị dòng tiền Ahmed (1990) cho rằng kiểm toán nội bộ cần đánh giá định kỳ các chính sách kế toán và tài chính cùng tất cả các vấn đề liên quan và đảm bảo rằng chúng diễn ra theo kế hoạch hợp lý. Đánh giá định kỳ và phản hồi về các chính sách quản lý và quy trình hoạt động nhằm mục đích cải thiện và phát triển chúng và đạt được hiệu quả cao nhất. Đi sâu vào những tư vấn trong chính sách quản lý, quy trình của hoạt động kế toán, tài chính, các tác giả Abubkr Ahmed và cộng sự (2011) đã khẳng định kiểm toán nội bộ có vai trò kiểm soát tính hiệu quả trong lập kế hoạch ngân sách, có tác động tích cực tới việc kiểm soát dòng tiền và nâng cao chất lượng phân tích tài chính của doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ giúp đảm bảo rằng các dự báo và kế hoạch tài chính liên quan đến dòng tiền được thực hiện đúng theo các quy định và chính sách, đồng thời cung cấp thông tin để điều chỉnh kế hoạch khi cần thiết. Tác giả cũng khẳng định, kiểm toán nội bộ có nhiệm vụ phát hiện các hành vi gian lận hoặc lạm dụng tài chính liên quan đến dòng tiền. Việc này giúp bảo vệ tài sản của doanh nghiệp và duy trì sự tin tưởng của nhà đầu tư và các bên liên quan. Đặc biệt, kiểm toán nội bộ còn có vai trò tư vấn trong việc đánh giá hiệu quả tài chính và quản trị dòng tiền. Nhà quản trị cần tham khảo ý kiến tư vấn từ kiểm toán nội bộ để kiểm soát dòng tiền vào và dòng tiền ra. Theo Hanna Viktorivna Bulkot, Sofiia Mykolaivna Kovalenko (2020), dòng tiền nếu quản lý, kiểm soát không tốt sẽ gia tăng nguy cơ sử dụng sai mục đích tiền của Ban quản lý. Hơn nữa, kiểm toán nội bộ khi thực hiện kiểm toán về hiệu quả dòng tiền sẽ giảm thiểu việc biển thủ tiền, hạn chế việc nhân viên sử dụng tài sản một cách không khôn ngoan, tham nhũng… Kiểm toán nội bộ không hiệu quả sẽ dẫn tới kế toán lưu chuyển tiền tệ không hiệu quả. Do đó, việc thực hiện kiểm toán nội bộ về hiệu quả dòng tiền là cơ hội để tăng hiệu quả kế toán và quản lý dòng tiền trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức. Khi vai trò của kiểm toán nội bộ về hiệu quả dòng tiền được tổ chức tốt sẽ tạo ra sự hấp dẫn đầu tư của các cổ đông với việc gia tăng giá trị thị trường của khoản đầu tư, gia tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, tổ chức trên thị trường và nâng cao chất lượng công việc. Như vậy, các nghiên cứu trên đã chỉ ra vai trò quan trọng của kiểm toán nội bộ trong công tác quản trị dòng tiền của tổ chức, doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ hỗ trợ nhà quản trị thông qua đánh giá hiệu quả các quy trình và kiểm soát nội bộ liên quan đến quản lý dòng tiền giúp nhận diện điểm yếu và đề xuất các biện pháp cải thiện. Đồng thời, kiểm toán nội bộ cung cấp các báo cáo và phân tích liên quan đến dòng tiền, giúp ban giám đốc đưa ra quyết định dựa trên thông tin chính xác và đầy đủ. Điều này góp phần tối ưu hóa quy trình quản lý tiền mặt và giảm thiểu rủi ro. 2.2. Thách thức của kiểm toán nội bộ trong quản trị dòng tiền của doanh nghiệp Kiểm toán nội bộ có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ nhà quản trị trong quản trị dòng tiền. Tuy nhiên, quá trình này gặp phải những thách thức: Thứ nhất, tính đa dạng, phức tạp của dòng tiền và các rủi ro liên quan: Dòng tiền trong doanh nghiệp thường phức tạp và đa dạng, bao gồm dòng tiền vào và ra từ nhiều nguồn khác nhau, từ 3 nhóm hoạt động chính (hoạt động kinh doanh chính, đầu tư và tài chính). Bên cạnh đó, dòng tiền của doanh nghiệp có liên quan tới nhiều chu trình kinh doanh và hoạt động trong doanh nghiệp. Điều này gây khó khăn cho việc theo dõi và đánh giá hiệu quả quản trị dòng tiền. Bên cạnh đó, dòng tiền là mục tiêu hàng đầu cho các hành vi gian lận như việc ghi nhận sai lệch doanh thu, giấu lỗ thông qua khoản phải thu, ghi tăng chi phí, chiếm dụng số tiền thu được của khách hàng... Đồng thời, thị trường và môi trường kinh doanh luôn thay đổi, cùng năng lực quản lý tài chính sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến dòng tiền của doanh nghiệp. Những rủi ro tài chính liên quan tới quản trị dòng tiền của doanh nghiệp như rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, và rủi ro tín dụng. Do đó, việc phát hiện và ngăn chặn các hành vi gian lận, hạn chế các rủi ro đòi hỏi kiểm toán viên phải có kỹ năng phân tích mạnh mẽ, cùng với việc sử dụng các công cụ và kỹ thuật kiểm toán hiện đại.   Thứ hai, chất lượng thông tin trong dự báo dòng tiền: Dự báo dòng tiền là một phần quan trọng trong quản lý tài chính của doanh nghiệp, nhưng việc đánh giá chất lượng của những dự báo này lại không dễ dàng, do nó phụ thuộc vào nhiều giả định về tình hình kinh doanh và kinh tế. Do đó, kiểm toán viên cần phải đánh giá tính hợp lý của các giả định và phương pháp dự báo dòng tiền, cũng như kiểm tra mức độ phù hợp của các dự báo so với thực tế. Thứ ba, khó khăn trong việc đánh giá độ tin cậy của dòng tiền thông qua tính cập nhật và liên tục của dòng tiền: Để quản trị dòng tiền hiệu quả, doanh nghiệp cần thông tin chính xác và kịp thời. Tuy nhiên, việc thu thập và xử lý thông tin dòng tiền một cách nhanh chóng và chính xác có thể gặp khó khăn nếu các hệ thống quản lý và quy trình không đồng bộ. Do đó, khi đánh giá độ tin cậy của dòng tiền, thông tin liên quan đến dòng tiền được cập nhật liên tục và phản ánh đúng thực tế là một thách thức lớn cho kiểm toán viên nội bộ. Thứ tư, sự xung đột lợi ích và sự độc lập của kiểm toán nội bộ: Trong một số trường hợp, bộ phận kiểm toán nội bộ có thể gặp phải xung đột lợi ích, đặc biệt khi các vấn đề liên quan đến dòng tiền từ các cấp lãnh đạo cao cấp. Điều này có thể ảnh hưởng đến tính độc lập và khách quan trong việc thực hiện kiểm toán. Những thách thức trên đòi hỏi kiểm toán viên nội bộ phải có sự hiểu biết sâu rộng về cả hoạt động kinh doanh và các kỹ thuật kiểm toán hiện đại để đánh giá một cách chính xác và toàn diện, hiệu quả trong quản lý dòng tiền. 2.3. Những giải pháp tăng cường vai trò kiểm toán nội bộ trong quản trị dòng tiền Để kiểm toán nội bộ tham gia đánh giá hiệu quả vào quá trình quản trị dòng tiền trong doanh nghiệp, một số giải pháp cụ thể có thể được triển khai: Thứ nhất, kiểm toán nội bộ cần tìm hiểu, đánh giá kỹ lưỡng về kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp về quản trị dòng tiền để có những đánh giá phù hợp các rủi ro, gian lận liên quan tới quản trị dòng tiền. Kiểm toán nội bộ sẽ xem xét cấu trúc của kiểm soát nội bộ, bao gồm môi trường kiểm soát (quan điểm, triết lý điều hành của ban lãnh đạo; phân công nhiệm vụ quyền hạn của các bộ phận liên quan; cơ cấu tổ chức…), các hoạt động kiểm soát (các chính sách, thủ tục và hoạt động của doanh nghiệp nhằm đảm bảo hiệu quả trong quản trị dòng tiền của doanh nghiệp), quy trình đánh giá rủi ro (việc xác định và các biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất của doanh nghiệp), truyền thông và thông tin (thông tin luân chuyển giữa các bộ phận trong doanh nghiệp về dòng tiền như bộ phận kế toán, thủ quỹ, bộ phận thu hồi công nợ… hoặc thông tin của doanh nghiệp với ngân hàng, khách hàng…) liên quan đến quản lý dòng tiền. Trên cơ sở đó,  kiểm toán nội bộ nhận diện, đánh giá, và giám sát các rủi ro tài chính liên quan đến dòng tiền, đồng thời đề xuất các biện pháp phòng ngừa và giảm thiểu rủi ro. Thứ hai, kiểm toán nội bộ thực hiện kiểm toán dòng tiền thường xuyên, trong đó đặc biệt quan tâm tới kiểm toán dự báo dòng tiền: Kiểm toán nội bộ nên thực hiện các cuộc kiểm toán định kỳ và đột xuất liên quan đến dòng tiền nhằm kiểm tra độ tin cậy của dòng tiền vào và ra trong doanh nghiệp để phát hiện kịp thời các sai sót hoặc gian lận. Kiểm toán nội bộ cần quan tâm tới quá trình phân tích và đánh giá tính phù hợp của các dự báo dòng tiền, đảm bảo rằng các dự báo này dựa trên các giả định hợp lý và dữ liệu đáng tin cậy. Các kiểm toán viên nội bộ thực hiện các thủ tục kiểm toán như: (i) Xem xét tài liệu quy trình dự báo của doanh nghiệp; (ii) Phỏng vấn các nhân sự liên quan để hiểu rõ cách thức và nguồn dữ liệu được sử dụng trong quá trình dự báo kết hợp với việc xem xét điều kiện thị trường, tìm hiểu về các khách hàng, nhà cung cấp chính của doanh nghiệp; (iii) Xem xét các phương pháp dự báo được sử dụng, chẳng hạn như phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) hoặc phân tích xu hướng… và đánh giá tính nhất quán và logic trong phương pháp dự báo; (iv) Phân tích sự khác biệt giữa dự báo và kết quả thực tế để xác định nguyên nhân của bất kỳ sai lệch nào. Khi xác định nguyên nhân cần xác định các yếu tố chính có thể tác động lớn đến dự báo dòng tiền như doanh thu, chi phí, lãi suất, tỷ giá hối đoái, và các giả định kinh tế khác. Đánh giá các yếu tố này dựa trên số liệu lịch sử và các điều kiện thị trường hiện tại. Kiểm tra tính hợp lý của các giả định được sử dụng trong dự báo. Bên cạnh đó, kiểm toán nội bộ cần phân tích dữ liệu tài chính và hoạt động kinh doanh để đưa ra các khuyến nghị chiến lược về quản lý dòng tiền, bao gồm việc tối ưu hóa cơ cấu tài chính, quản lý thanh khoản và sử dụng nguồn vốn hiệu quả. Sau mỗi kỳ kiểm toán, kiểm toán nội bộ nên thực hiện đánh giá đưa ra các nhận xét và khuyến nghị để cải thiện quản trị dòng tiền trong các kỳ tiếp theo. Thứ ba, kiểm toán nội bộ cần quan tâm đánh giá tính kịp thời trong phản ánh các thông tin về dòng tiền của doanh nghiệp. Các kiểm toán viên nội bộ thực hiện các thủ tục kiểm toán như: (i) Phỏng vấn các nhân viên phụ trách quản lý dòng tiền để hiểu quy trình từ khi dữ liệu được thu thập cho đến khi thông tin được báo cáo; (ii) Xem xét các hệ thống công nghệ thông tin được sử dụng để xử lý thông tin dòng tiền; (iii) Xem xét thời gian giữa các giai đoạn thu thập dữ liệu, xử lý thông tin và báo cáo, đánh giá xem thời gian này có phù hợp với yêu cầu quản trị của doanh nghiệp hay không; (iv) Xem xét các quy trình phê duyệt và truyền tải thông tin và đánh giá xem các biện pháp kiểm soát có đảm bảo rằng thông tin dòng tiền không bị chậm trễ trong quá trình thu thập và báo cáo; (v) Thực hiện phân tích nguyên nhân và đánh giá tác động (bám sát vào quy trình, công nghệ, và nguồn lực) của sự chậm trễ về phản ánh các thông tin liên quan tới dòng tiền được phát hiện; (vi) Đề xuất các giải pháp để khắc phục các yếu tố gây chậm trễ này. Thứ tư, tăng cường đào tạo và phát triển chuyên môn cho kiểm toán viên nội bộ. Khi thực hiện kiểm toán quản trị dòng tiền, kiểm toán viên nội bộ cần được trang bị kiến thức sâu rộng về tài chính và các công cụ kiểm toán tiên tiến để có thể đánh giá hiệu quả quản lý dòng tiền một cách chính xác. Doanh nghiệp nên đầu tư vào đào tạo liên tục cho kiểm toán viên nội bộ thông qua các khóa học về quản lý dòng tiền, rủi ro tài chính, và phân tích dữ liệu. Như vậy, để kiểm toán nội bộ tham gia hiệu quả vào quản trị dòng tiền trong doanh nghiệp,  cần có các giải pháp đồng bộ nâng cao trình độ, chuyên môn từ phía kiểm toán viên và sự hỗ trợ của doanh nghiệp về vai trò và tính độc lập của kiểm toán nội bộ trong quá trình kiểm toán. Kiểm toán viên cần đánh giá mối liên hệ giữa chiến lược kinh doanh và dòng tiền, đảm bảo rằng chiến lược của doanh nghiệp không gây ra rủi ro tài chính từ đó góp phần vào nâng cao hiệu quả quản lý tài chính của doanh nghiệp, tạo ra sự ổn định và phát triển bền vững. Tài liệu tham khảo 1. Ahmed Saleh Al Omran, internal review theoretical framework and behavioural content (Amman: Dar al-Publishing, 1990), p. 25; 2. Abubkr Ahmed Elhadi Abdelraheem (2011), The Role of Internal Audit in Evaluating the Financial Performance at Sudanese Banks (Case Study in Omdurman National Bank); 3. Hanna Viktorivna Bulkot, Sofiia Mykolaivna Kovalenko (2020), Features of internal audit of cash flow efficiency at enterprises, institutions, organizations of Ukraine, Issue: № 6, 2020; https://doi.org/10.37634/efp.2020.6.1. Tác giả: TS. Trần Phương Thùy, Học viện Ngân hàng (Theo Tạp chí Nghiên cứu Khoa học kiểm toán - số tháng 9/2024)  

TÁI CƠ CẤU DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC, CƠ CHẾ QUẢN LÍ VỐN NHÀ NƯỚC ĐẦU TƯ TẠI DOANH NGHIỆP VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

Nguyễn Đình Sơn Phó Kiểm toán trưởng Kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI   Tái cơ cấu là việc xem xét và cấu trúc lại một phần, hay toàn bộ một tổ chức, một đơn vị nói chung, trong đó bao gồm các doanh nghiệp nhà nước. Trong bối cảnh kinh tế thị trường toàn cầu hóa, việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ quan trọng, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững của đất nước. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và cải cách cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp là một trong những giải pháp then chốt nhằm tối ưu hóa năng lực cạnh tranh và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tái cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một trong những nội dung quan trọng của chính sách tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế Việt Nam được khởi xướng từ Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3 (khóa XI) năm 2011. Từ đó đến nay, quá trình tái cơ cấu, sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được tiến hành theo từng giai đoạn và được Chính phủ, các bộ/ngành, doanh nghiệp nhà nước quan tâm tổ chức triển khai, thực hiện. Song song với việc tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, nhiệm vụ không thể thiếu là việc hoàn thiện các thể chế, chính sách, quy định pháp luật liên quan để phù hợp với các thay đổi diễn ra theo quá trình tái cơ cấu nhằm đạt mục tiêu đề ra khi thực hiện các nhiệm vụ. ​ Tuy nhiên, tại các văn bản pháp lý hiện nay chưa có quy định đầy đủ, toàn diện về cụm từ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước là gì. Và việc quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp còn nhiều bất cập. ​ 1. Thực trạng quá trình thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua ​ Tại Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã xác định: Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là một trong 3 nhiệm vụ trọng tâm cấp bách trong quá trình tái cấu trúc tổng thể nền kinh tế Việt Nam. Đây là quá trình tất yếu, phù hợp với tiến trình chuyển đổi từ phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu để doanh nghiệp nhà nước thực sự khẳng định vai trò then chốt của kinh tế nhà nước; với mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, hoàn thành nhiệm vụ sản xuất, cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh đối với doanh nghiệp hoạt động công ích. ​ Đến nay, đã trải qua 02 giai đoạn thực hiện tái cơ cấu doanh ngiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước (giai đoạn 2011-2015, giai đoạn 2016-2020); đang triển khai thực hiện đề án cơ cấu lại doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025. ​ Trong thời gian gần đây, các cơ chế, chính sách pháp luật về quản lý, sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung khá đầy đủ, đồng bộ theo hướng ngày càng chặt chẽ, công khai, minh bạch hơn, đồng thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tiến độ thực hiện. Tiêu chí phân loại doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước… được chỉ đạo xây dựng, phê duyệt, ban hành kịp thời, làm cơ sở cho các bộ ngành, địa phương sớm xây dựng kế hoạch sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp cho giai đoạn 2021-2025. Bên cạnh đó, Chính phủ đã quyết liệt và sát sao chỉ đạo, cho ý kiến về xây dựng cơ chế, chính sách, hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, công tác sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp của một số cơ quan, đơn vị; tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh đại dịch COVID-19. ​ Giai đoạn 2011-2015: Đẩy nhanh tiến độ tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước. ​ Đã sắp xếp được 588 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 508 doanh nghiệp và sắp xếp theo các hình thức khác 80 doanh nghiệp. Tổng giá trị thực tế doanh nghiệp của 508 doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa là 760.774 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 188.274 tỷ đồng; tổng vốn điều lệ theo phương án được phê duyệt là 197.217 tỷ đồng, trong đó Nhà nước nắm giữ 128.031 tỷ đồng (bằng 65% vốn điều lệ); nhà đầu tư chiến lược nắm giữ 31.065 tỷ đồng (bằng 15,8% vốn điều lệ); người lao động nắm giữ 4.042 tỷ đồng (bằng 2% vốn điều lệ); tổ chức công đoàn nắm giữ 1.124 tỷ đồng (bằng 0,5% vốn điều lệ); bán công khai 32.931 tỷ đồng (bằng 16,7% vốn điều lệ). ​ - Các tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã thực hiện thoái vốn đầu tư vào 05 lĩnh vực nhạy cảm (lĩnh vực bất động sản, chứng khoán, tài chính - ngân hàng, bảo hiểm và quỹ đầu tư) được 11.036 tỷ đồng, thu về 10.742 tỷ đồng (số thu về giảm so với sổ sách do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam thoái 800 tỷ đồng và Tổng công ty Lương thực miền Nam thoái 1,3 tỷ đồng với giá 0 đồng). Cũng giai đoạn này, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) đã tiếp nhận 67 doanh nghiệp, với giá trị sổ sách kế toán là 1.666 tỷ đồng, nâng tổng số doanh nghiệp SCIC tiếp nhận từ khi thành lập lên gần 1000 doanh nghiệp với tổng giá trị vốn nhà nước hơn 8.722 tỷ đồng. SCIC đã bán vốn tại 411 doanh nghiệp, với doanh thu bán vốn đạt 8.726 tỷ đồng, giá vốn 3.595 tỷ đồng, thặng dư bán vốn hơn 5.130 tỷ đồng, gấp 2,4 lần giá trị sổ sách. ​ Giai đoạn 2016-2020: Đẩy mạnh cơ cấu lại, chuyển đổi với các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, phạm vi hoạt động rộng, kinh doanh đa ngành nghề, tài chính phức tạp. ​ Kết quả giai đoạn 2016-2020, cả nước đã cổ phần hóa 180 doanh nghiệp với quy mô vốn nhà nước được xác định lại tăng 23,3% so với giai đoạn 2011-2015; đã thoái vốn trên 27,31 nghìn tỷ đồng, thu về 117,39 nghìn tỷ đồng, gấp 6,5 lần giá trị sổ sách, cao hơn so với giai đoạn 2011-2015 cả về giá trị và hiệu quả thoái vốn. Tổng số tiền thu từ cổ phần hóa, thoái vốn đạt trên 220 nghìn tỷ đồng, gấp 2,8 lần giai đoạn 2011-2015. Song song với đó, nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn được quản lý tập trung, sử dụng hiệu quả, chuyển vào ngân sách nhà nước theo đúng Nghị quyết của Quốc hội. ​ Nhờ cổ phần hóa, sắp xếp, cơ cấu lại, các doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn tổng công ty nhà nước được sắp xếp lại tinh gọn hơn, nhiều doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. Qua đó đã thể hiện được vai trò quan trọng trong ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19, các doanh nghiệp nhà nước, tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã khắc phục khó khăn, nỗ lực hoàn thành cao nhất kế hoạch sản xuất, kinh doanh, bảo đảm việc làm, thu nhập cho người lao động, đóng góp lớn cho công tác phòng chống dịch. ​ Tuy nhiên, mặc dù đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn của giai đoạn vừa qua vẫn chưa đạt kế hoạch đề ra, vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Trong số 180 doanh nghiệp đã cổ phần hóa của giai đoạn 2016-2020, chỉ có 39/128 doanh nghiệp thuộc danh mục cổ phần hóa theo công văn số 991/TTg-ĐMDN và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg ngày 15/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Danh mục doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa đến hết năm 2020, đạt khoảng 30% kế hoạch. Tiến độ chậm chạp trong cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2012-2020 đang có những dấu hiệu kéo dài sang cả giai đoạn 2021-2025. Trong năm 2021, chỉ có 4 doanh nghiệp cổ phần hóa với tổng giá trị doanh nghiệp là 333 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phần vốn nhà nước là 196 tỷ đồng. Có 18 doanh nghiệp đã thoái vốn với giá trị 1,66 nghìn tỷ đồng, thu về 4,40 nghìn tỷ đồng, trong đó thoái vốn nhà nước tại 4 doanh nghiệp với giá trị 52,8 tỷ đồng, thu về 85,1 tỷ đồng; các tập đoàn, tổng công ty thoái vốn tại 14 doanh nghiệp với giá trị 1,61 nghìn tỷ đồng, thu về 4,31 nghìn tỷ đồng. 6 tháng đầu của năm 2022, chỉ có duy nhất 1 doanh nghiệp cổ phần hóa thuộc danh mục cổ phần hóa của Thủ tướng Chính phủ với tổng giá trị doanh nghiệp đạt 309 tỷ đồng, trong đó giá trị thực tế phấn vốn nhà nước là 278 tỷ đồng. Đối với công tác thoái vốn, các tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước thoái vốn tại doanh nghiệp với giá trị 382 tỷ đồng, thu về 2.180 tỷ đồng. ​ Giai đoạn 2021-2025: Tiếp tục thực hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung giữ vững những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế. ​ Đối với giai đoạn 2021-2025, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 360/ QĐ-TTg ngày 17/3/2022 về “Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước giai đoạn 2021-2025”, các cơ quan chịu trách nhiệm và doanh nghiệp cần phối hợp đẩy mạnh hơn nữa công tác cổ phần hóa, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Đến ngày 29/11/2022, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1479/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước giai đoạn 2022-2025 theo các hình thức: Duy trì công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; cổ phần hóa, sắp xếp lại (bao gồm hình thức sáp nhập, giải thể); chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn nhà nước (thoái vốn) giai đoạn 2022-2025. ​ Theo kế hoạch, tiếp tục duy trì 195 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên giai đoạn 2022-2025 (danh mục do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ giai đoạn 2022-2025); thực hiện cổ phần hóa 19 doanh nghiệp, sắp xếp lại 5 doanh nghiệp; thực hiện thoái vốn 141 doanh nghiệp giai đoạn 2022-2025; giữ nguyên phần vốn nhà nước tại 126 doanh nghiệp, 21 doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện sắp xếp theo phương án riêng giai đoạn 2022- 2025. Quyết định cũng nêu rõ: các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thuộc: Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương và các doanh nghiệp chưa được quy định tại Quyết định này (không thuộc diện chuyển giao về Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước) thực hiện sắp xếp theo kế hoạch được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn trước ngày 29/11/2022 thì thực hiện theo hướng: Đối với các doanh nghiệp chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa, thoái vốn, cơ quan đại diện chủ sở hữu chủ động điều chỉnh lại tỷ lệ cổ phần nhà nước nắm giữ khi xây dựng phương án theo Kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước giai đoạn 2022-2025 ban hành kèm theo Quyết định này và báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để theo dõi, tổng hợp. Đối với các doanh nghiệp đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa, thoái vốn thì thực hiện theo phương án đã được phê duyệt và tiếp tục xây dựng phương án để thực hiện thoái vốn theo tỷ lệ quy định tại Kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước giai đoạn 2022-2025 ban hành kèm theo Quyết định này. ​ Những kết quả ban đầu của quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ​ Trong quá trình nỗ lực tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện rõ những quyết tâm, nỗ lực trong việc thực hiện một chủ trương đúng đắn và một lộ trình thống nhất, ban hành nhiều nghị quyết, cơ chế, chính sách, biện pháp đổi mới trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước và bảo đảm vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Điều đó được thể hiện như sau: ​ - Ban hành khung pháp lý hệ thống các cơ chế chính sách pháp luật phục vụ quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước tương đối đầy đủ, tiếp tục ban hành, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện, đảm bảo chặt chẽ hơn, công khai, minh bạch, tối đa hóa lợi ích của Nhà nước, tháo gỡ khó khăn vướng mắc nhằm đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa, thoái vốn và hạn chế thất thoát vốn, tài sản nhà nước trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường nhằm giải phóng và phát huy tối đa các nguồn lực trong doanh nghiệp để phát triển kinh tế - xã hội đất nước, phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế. ​ - Xây dựng và phê duyệt các đề án tổng thể sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước phù hợp với vai trò của khu vực doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường, bám sát định hướng phát triển kinh tế đất nước từng giai đoạn, làm cơ sở cho các bộ, ngành, địa phương tiến hành tổ chức thực hiện. Cụ thể là theo các đề án sắp xếp, đổi mới và phát triển doanh nghiệp nhà nước của các bộ, ngành và địa phương đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thì số lượng doanh nghiệp có 100% vốn nhà nước chỉ còn khoảng 40% so với hiện nay; cổ phần hóa 43%; giao bán khoán kinh doanh và cho thuê 4,5%; còn lại sẽ giải thể, phá sản, chuyển sang đơn vị sự nghiệp có thu; tổng số vốn nhà nước tại các doanh nghiệp còn khoảng 84%; lao động trong doanh nghiệp nhà nước còn khoảng 950 nghìn người (giảm 30,4%). Các doanh nghiệp nhà nước còn lại này chủ yếu hoạt động trong các lĩnh vực then chốt như dầu khí, viễn thông, hóa chất, giao thông, cơ sở hạ tầng… đảm bảo cân đối vĩ mô cho nền kinh tế, công ích, an ninh, quốc phòng. Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp sau cổ phần hóa được nâng lên, tối đa hóa lợi ích của Nhà nước và góp phần hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân. ​ - Các doanh nghiệp nhà nước đã từng bước được cơ cấu lại hiệu quả hơn, cơ bản thực hiện được vai trò là lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước điều tiết kinh tế, ổn định vĩ mô, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, doanh nghiệp nhà nước gắn với quá trình cổ phần hóa, sắp xếp đã đạt được nhiều mục tiêu đặt ra của việc xã hội hóa cung cấp dịch vụ công như: cơ bản nâng cao chất lượng dịch vụ sự nghiệp công, giúp cải thiện quản trị và hiệu quả hoạt động của đơn vị cung cấp dịch vụ, thu hút thêm nguồn lực xã hội cho việc cung cấp dịch vụ sự nghiệp công, giảm hỗ trợ của ngân sách nhà nước so với trước đây; việc đầu tư ngoài ngành, ngoài lĩnh vực chính của doanh nghiệp nhà nước đã được hạn chế nhiều, doanh nghiệp nhà nước tập trung nhiều hơn vào ngành nghề là lĩnh vực kinh doanh chủ yếu. ​ Một số hạn chế, tồn tại của quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước ​ - Tiến độ phê duyệt, triển khai Đề án tái cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, chuyển giao quyền đại diện chủ sở hữu về SCIC, đăng ký giao dịch, niêm yết, quyết toán bàn giao sang công ty cổ phần còn chậm. Các quy định liên quan đến công tác sắp xếp, cơ cấu lại doanh nghiệp còn gặp vướng mắc, khó khăn trong triển khai, chưa được tháo gỡ kịp thời dẫn đến kéo dài thời gian thực hiện, nhất là các nội dung về sắp xếp, phê duyệt phương án sử dụng đất khi cổ phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp, giá trị quyền sử dụng đất, thương hiệu, truyền thống, văn hóa, lịch sử để cổ phần hóa, thoái vốn. ​ - Công tác xây dựng và tổ chức triển khai kế hoạch cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp chưa được quan tâm nghiêm túc, trong quá trình triển khai thực hiện, phát sinh việc đơn vị triển khai không kịp thời theo tiến độ đề ra nhưng việc rà soát, sửa đổi, bổ sung danh mục và kế hoạch cổ phần hóa chậm, chưa đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời. ​ - Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước về cơ bản đã đạt về mặt số lượng doanh nghiệp (nhưng số vốn được cổ phần hóa còn rất ít), hơn 95% doanh nghiệp được cổ phần hóa nhưng chỉ có 8% số vốn được cổ phần hóa. Quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước đạt được thành công về mặt số lượng nhưng chưa đạt được thành công về số vốn (phản ánh phần nào khía cạnh chất lượng). Một số doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh hiệu quả thấp, thua lỗ, chưa tương xứng với nguồn lực nắm giữ, còn có những dự án chưa hiệu quả, ảnh hướng đến kết quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; công tác đổi mới quản trị của một số doanh nghiệp nhà nước chưa theo kịp với yêu cầu biến động của thị trường; công tác quản lý rủi ro, thực hành tiết kiệm còn hạn chế; chế độ đãi ngộ và xử lý trách nhiệm chưa tạo được động lực gắn với trách nhiệm theo cơ chế thị trường. ​ - Kết quả tái cơ cấu cho thấy các doanh nghiệp nhà nước mới chỉ dừng lại ở việc sáp nhập lại với nhau một cách cơ học (chuyển giao doanh nghiệp nhà nước yếu kém của đơn vị này sang cho đơn vị khác quản lý), quy mô của doanh nghiệp tăng nhưng không có sự chuyển biến về chất trong hoạt động và quản lý điều hành. Do đó, việc tái cơ cấu thời gian qua chưa phát huy một cách tối đa năng lực cũng như lợi thế riêng vốn có của từng doanh nghiệp. Đồng thời, việc xây dựng, triển khai đề án sắp xếp doanh nghiệp nhà nước theo ngành, lĩnh vực kinh doanh không phân biệt cấp, cơ quan quản lý vẫn còn chậm trễ. ​ - Một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Công tác lập kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn để trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành danh mục cổ phần hóa, thoái vốn còn chậm và chưa sát với thực tế triển khai, nhiều doanh nghiệp chỉ đến khi thực hiện cổ phần hóa mới thực hiện sắp xếp, xử lý đất đai theo quy định, dẫn đến làm chậm quá trình cổ phần hóa. ​ Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, tồn tại ​ (1) Nguyên nhân bên ngoài chủ thể tái cơ cấu ​ - Một số quy định mới về sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn được ban hành theo hướng tách quá trình xử lý liên quan đến đất đai ra khỏi quá trình cổ phần hóa (các doanh nghiệp khi thực hiện cổ phần hóa phải được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sử dụng đất trước khi công bố giá trị doanh nghiệp), trong khi các quy định liên quan Luật Đất đai, tài nguyên trong thời gian qua còn nhiều bất cập, chỉnh sửa nên cần thời gian để thực hiện nên gây ảnh hưởng đến quá trình tái cơ cấu. ​ - Các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại giai đoạn gần đây đa phần là các doanh nghiệp lớn, có tình hình tài chính phức tạp, sở hữu nhiều đất đai; hoặc là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công ích, gắn liền với các hoạt động của địa phương, đóng góp vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện các chiến lược, mục tiêu về an sinh xã hội của địa phương. Do vậy, ảnh hưởng tới tiến độ tái cơ cấu. ​ - Các quy định, hướng dẫn trong các nghị định, thông tư hướng dẫn về phương pháp định giá còn có những hạn chế nên gặp khó khăn khi áp dụng: bất cập lớn trong thực tiễn công tác thẩm định giá xác định giá khởi điểm dẫn đến các đơn vị tư vấn thẩm định giá khó thống nhất trong tiếp cận, định giá các loại tài sản khi cổ phần hóa như: ​ + Giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền thuê đất, giá trị thương hiệu, giá trị lợi thế kinh doanh, giá trị lịch sử, văn hóa... để xác định giá trị thương hiệu, tiềm năng phát triển của doanh nghiệp chưa có tiêu chuẩn cụ thể để định giá nên chưa tính được hết giá trị tương lai cũng như tiềm năng của doanh nghiệp; chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc định giá các tài sản vô hình (như uy tín trên thị trường, nhãn hiệu, quyền sở hữu trí tuệ...),  do đó việc định giá tài sản vô hình sẽ phụ thuộc nhiều vào ý kiến của người định giá dẫn đến việc giá trị của chúng có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị hợp lý. Việc xác định giá trị đất phù hợp theo giá thị trường gặp khó khăn do việc mua bán đất thời gian dài qua vẫn có lỗ hổng để cơ chế 2 giá. ​ + Thiếu chế tài đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các doanh nghiệp nhà nước hoạt động thua lỗ; nhiều doanh nghiệp trước và trong quá trình cổ phần hóa thiếu công khai, minh bạch về thông tin, số liệu (đặc biệt là những doanh nghiệp có vấn đề về tài chính hoặc đang được hưởng các lợi thế đặc biệt trong kinh doanh). ​ + Chính sách thu hút cổ đông chiến lược còn nhiều ràng buộc về mặt chính sách (thời hạn quy định lựa chọn cổ đông chiến lược ngắn so với các trường hợp cổ phần hóa doanh nghiệp lớn và có cơ cấu tài sản phức tạp). ​ + Chưa có hướng dẫn cụ thể đối với phần cổ tức sẽ được hưởng tại các doanh nghiệp đầu tư nhưng chưa chia và các lợi nhuận chưa chia khi cổ phần hóa, có thể dẫn đến thất thoát cho Nhà nước. Đối với các dự án kinh doanh bất động sản chưa hoàn tất thủ tục đầu tư chưa đưa vào kinh doanh, nhưng đã có thỏa thuận đặt cọc chuyển nhượng cho nhà đầu tư khác (có thể gây thiệt hại cho Nhà nước) nhưng chưa đề cập đến. ​ (2) Nguyên nhân bên trong chủ thể tái cơ cấu ​ - Vướng mắc khi thể chế chậm được nghiên cứu, hoàn thiện, bổ sung để tháo gỡ và thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Một số cơ chế, chính sách, văn bản pháp luật liên quan chưa rõ ràng, phù hợp, gây lúng túng trong triển khai (Luật Quản lý, sử dụng tài sản công đã được ban hành, song các văn bản hướng dẫn thi hành Luật còn bất cập, chưa cụ thể nên ảnh hưởng đến việc sắp xếp lại, xử lý tài sản công; phân định rõ tài sản nhà nước và tài sản Nhà nước giao cho doanh nghiệp gắn với hiện trạng vốn nhà nước tại doanh nghiệp (tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp), cá biệt còn có nội dung chưa cụ thể, cách hiểu còn khác nhau dẫn đến lúng túng, chưa thống nhất khi thực hiện).   - Một số bộ, ngành, địa phương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước còn chưa thực sự nghiêm túc triển khai kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Công tác lập kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn để trình các cơ quan có thẩm quyền ban hành danh mục cổ phần hóa, thoái vốn còn chậm và chưa sát với thực tế triển khai, nhiều doanh nghiệp chỉ đến khi thực hiện cổ phần hóa mới thực hiện sắp xếp, xử lý đất đai theo quy định, dẫn đến làm chậm quá trình cổ phần hóa.   - Một số doanh nghiệp nhà nước không muốn thoái vốn khỏi những ngành, lĩnh vực phát triển mạnh, có tỷ suất sinh lời cao làm cho tiến độ thoái vốn chậm lại.   2. Cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và một số bất cập   Cơ chế quản lý vốn nhà nước là một trong những yếu tố quyết định đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước và sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Trong những năm qua, thực trạng quản lý vốn nhà nước tại Việt Nam đã có những chuyển biến tích cực, nhưng vẫn còn nhiều thách thức cần phải giải quyết.   Cơ chế quản lý vốn nhà nước tại Việt Nam chủ yếu được thực hiện thông qua các văn bản pháp lý, chính sách và quy định của Nhà nước. Vốn nhà nước thường được phân bổ cho các doanh nghiệp nhà nước để thực hiện các dự án phát triển, tạo việc làm và cung cấp hàng hóa, dịch vụ thiết yếu cho người dân. Tuy nhiên, việc quản lý vốn nhà nước trong các doanh nghiệp nhà nước còn thiếu tính đồng bộ, hiệu quả chưa cao và còn tồn tại nhiều bất cập, như:   - Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước chưa theo kịp với thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp. Việc phân tách giữa nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ công ích chưa rõ ràng, minh bạch; cơ chế đảm bảo cho các doanh nghiệp nhà nước được giao hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực có mức sinh lời thấp mà khu vực kinh tế tư nhân không muốn hoặc không đủ sức tham gia vào những lĩnh vực cần thiết cho nền kinh tế còn thiếu. Bên cạnh đó, chức năng đại diện chủ sở hữu còn phân tán, chưa phân định rõ cơ quan chịu trách nhiệm chính trong quản lý, giám sát việc sử dụng vốn, tài sản của doanh nghiệp nhà nước…   - Mặt khác, hệ thống quy định của pháp luật chưa quy định đầy đủ về việc giám sát cơ quan chủ sở hữu. Hiệu quả quản lý của cơ quan đại diện chủ sở hữu và trách nhiệm nâng cao giá trị vốn nhà nước là những vấn đề chưa được thường xuyên xem xét, đánh giá và công bố công khai. Do thiếu cơ chế giám sát, đánh giá thường xuyên đối với cơ quan đại diện chủ sở hữu nên không tạo được áp lực cho các cơ quan đại diện chủ sở hữu (Bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh...) phải quản lý vốn nhà nước tốt hơn, hiệu quả hơn. Cùng với đó, trách nhiệm giám sát doanh nghiệp nhà nước còn phân tán cho nhiều cơ quan, thiếu sự thống nhất. Không cơ quan nào có đủ thẩm quyền và khả năng theo dõi, đánh giá doanh nghiệp nhà nước một cách đầy đủ, hiệu quả và toàn diện.   - Quy định pháp luật quản lý vốn nhà nước vẫn còn chưa đồng nhất, rõ ràng để quản lý đầy đủ vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Chẳng hạn, nếu theo các quy định hiện hành thì các chế tài quản lý nhà nước đối với vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp chỉ mới dừng lại ở quản lý nguồn vốn và quản lý việc sử dụng vốn nhà nước tại các công ty mẹ, tập đoàn kinh tế, chưa quản lý được phần vốn nhà nước tại các công ty con hay công ty liên kết. Cụ thể là: Một trong các tiêu chí để đủ điều kiện là doanh nghiệp nhà nước được quy định lại khoản 11, Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2020; điểm b, khoản 1, Điều 88 Luật Doanh nghiệp 2020 và điểm 8, Điều 3 Luật Quản lý vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng tại Điều 88, khoản 3 Luật Doanh nghiệp 2020 lại quy định doanh nghiệp nhà nước chỉ có các công ty mẹ có cổ phần nhà nước trên 50%, không có các công ty con có cổ phần nhà nước trên 50%.   Trong khi thực tế là vốn nhà nước nằm tại các công ty con, công ty liên kết và các mô hình công ty này không được gọi là doanh nghiệp nhà nước, mọi hoạt động quản lý, sử dụng vốn tại doanh nghiệp kiểu này được hoạt động theo Luật Doanh nghiệp như các doanh nghiệp tư nhân (chẳng hạn không bắt buộc phải thực hiện đấu thầu khi mua sắm hàng hóa, vật tư, tài sản… không chịu chế tài quản lý tài sản công…) do vậy khó có thể đảm bảo việc quản lý, sử dụng vốn nhà nước có hiệu quả kinh tế như kỳ vọng.   - Việc quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có phần vốn nhà nước không chi phối còn nhiều khó khăn, đặc biệt là tại các doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ, thuộc diện giám sát tài chính đặc biệt hoặc có cổ đông lớn thiếu hợp tác. Dẫn đến quyền cổ đông nhà nước gặp khó khăn trong công tác quản trị đối với các doanh nghiệp sau cổ phần hóa.   Trong thời gian qua, Việt Nam đã nỗ lực cải cách cơ chế quản lý vốn nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các doanh nghiệp nhà nước được khuyến khích thực hiện cổ phần hóa, tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Chính phủ đã đưa ra nhiều chính sách nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước phát triển, đồng thời kiểm soát tốt hơn việc đầu tư và sử dụng nguồn vốn nhà nước.   Nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã hoạt động hiệu quả hơn sau khi thực hiện các giải pháp cải cách. Một số doanh nghiệp nhà nước đã khẳng định được vị thế của mình trong thị trường, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế quốc gia.   Tuy có những thành tựu nhất định, cơ chế quản lý vốn nhà nước tại Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề cần khắc phục. Trước hết, thiếu sót trong công tác kiểm soát và giám sát dẫn đến tình trạng lãng phí, thất thoát trong sử dụng vốn nhà nước. Nhiều doanh nghiệp nhà nước vẫn chưa có hệ thống báo cáo và đánh giá kết quả hoạt động rõ ràng, khiến cho việc quản lý trở nên khó khăn.   Bên cạnh đó, sự phân cấp không đồng đều giữa các cấp quản lý cũng là một vấn đề nan giải. Một số địa phương thiếu nguồn lực để quản lý vốn nhà nước hiệu quả, trong khi các doanh nghiệp nhà nước lớn lại thường gặp khó khăn trong việc thực hiện các quy định liên quan đến kiểm soát chi tiêu và đầu tư.   Năng lực quản lý của những người đứng đầu doanh nghiệp nhà nước cũng cần được nâng cao hơn nữa. Nhiều lãnh đạo chưa có đủ kinh nghiệm và kiến thức về quản lý tài chính hiện đại, dẫn đến việc ra quyết định không tối ưu và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn nhà nước.   Để nâng cao hiệu quả quản lý vốn nhà nước, cần hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến quản lý tài chính công, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát tình hình tài chính của các doanh nghiệp nhà nước. Bên cạnh đó, cần xây dựng các tiêu chuẩn và chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn nhà nước một cách khoa học và minh bạch.   Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý vốn nhà nước cũng là một hướng đi quan trọng. Hệ thống thông tin đồng bộ và hiện đại sẽ giúp cung cấp dữ liệu chính xác, kịp thời, từ đó quyết định chính sách quản lý của các cơ quan chức năng có căn cứ rõ ràng.   Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách nhằm nâng cao khả năng quản lý vốn nhà nước nhưng việc thực hiện có nơi còn mang tính hình thức. Tình trạng phân bổ vốn không hợp lý, thiếu sự giám sát và đánh giá hiệu quả đầu tư vẫn chưa được khắc phục triệt để.   Cơ chế quản lý vốn nhà nước tại Việt Nam còn nhiều thách thức, nhưng với sự nỗ lực cải cách và đổi mới, cùng với việc áp dụng các giải pháp hiện đại, có thể hình thành một cơ chế quản lý vốn nhà nước hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững cho đất nước.   3. Giải pháp nâng cao hiệu quả tái cơ cấu và quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp nhà nước   Để nâng cao hiệu quả tái cơ cấu và quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước trong thời gian tới, các giải pháp cần tập trung thực hiện gồm:   Tăng cường công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cần tập trung vào việc đào tạo kỹ năng quản lý hiện đại, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ quản lý tại doanh nghiệp nhà nước.   Đổi mới cơ chế vận hành và quản lý. Cần xây dựng một cơ chế quản lý hiện đại, bao gồm việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính, tăng cường phân quyền và nâng cao trách nhiệm của các đơn vị.   Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Các cơ quan chức năng cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước nhằm phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm trong quản lý và sử dụng vốn nhà nước.   Thúc đẩy cổ phần hóa và hợp tác công tư (PPP). Tiến hành cổ phần hóa một cách đồng bộ và có hiệu quả, đồng thời khuyến khích các hình thức đối tác công tư để tăng cường nguồn lực, cải tiến công nghệ và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.   Nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình. Thiết lập các tiêu chuẩn cao về minh bạch trong tài chính, công khai thông tin liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp nhà nước để tăng cường sự giám sát của xã hội.   Liên tục thúc đẩy quá trình cơ cấu lại, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để đảm bảo Nhà nước chỉ nắm giữ một số ít doanh nghiệp nhà nước trong những ngành, lĩnh vực thực sự quan trọng cho phát triển và an ninh quốc gia. Xác định rõ lộ trình và thực hiện cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo nguyên tắc thị trường bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, đánh giá chính xác, xác định đầy đủ giá trị doanh nghiệp, bao gồm cả các nguồn lực về vốn, đất đai, thương hiệu; không làm mất thương hiệu, bản sắc doanh nghiệp, không để thất thoát vốn, tài sản nhà nước.   Hoàn thiện, đồng bộ thể chế và chính sách về cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tách chức năng sở hữu doanh nghiệp nhà nước ra khỏi chức năng quản lý nhà nước; phân định rõ chức năng thương mại và công ích cho doanh nghiệp nhà nước và giải quyết vấn đề do lịch sử để lại; tạo điều kiện khuyến khích cải cách, sáng tạo, tự chủ cho doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy chế độ hợp tác giữa các doanh nghiệp nhà nước và giữa doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác; đổi mới quản trị doanh nghiệp trong các doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế; cần tìm kiếm cơ chế để tạo động lực cho bộ máy quản lý doanh nghiệp nhà nước nhằm hướng tới hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước; thu hút người tài; có cơ chế lương - thưởng xứng đáng với kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.   Hoàn thiện thể chế quản lý tài sản nhà nước. Bám sát nhiệm vụ trọng tâm là quản lý vốn để thúc đẩy chuyển đổi chức năng cơ quan giám sát quản lý tài sản nhà nước, cải cách thể chế ủy quyền kinh doanh vốn nhà nước; thúc đẩy tối ưu hóa việc phân bổ hợp lý vốn nhà nước; thúc đẩy giám sát quản lý thống nhất, tập trung đối với tài sản nhà nước mang tính kinh doanh và buộc doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo nguyên tắc thị trường.

QUẢN LÝ NỢ CÔNG TẠI VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA

TS. Vũ Đình Ánh, Chuyên gia kinh tế   Ban hành và thực thi Luật Quản lý nợ công 2017 đã mang lại nhiều kết quả tích cực. Nếu giai đoạn trước và sau khi áp dụng Luật Quản lý nợ công 2009 gắn với những rủi ro nợ công ngày một lớn với qui mô nợ công phình to áp sát các giới hạn an toàn, cả nợ công, nợ chính phủ và nợ nước ngoài thì từ năm 2018 đến nay, qui mô nợ công liên tục giảm xuống, thậm chí thấp xa so với các giới hạn an toàn nợ công được công bố. Hơn thế nữa, trong vòng 5 năm gần đây thì nợ công và an toàn nợ công rất ít được nhắc tới, trái ngược với hơn 10 năm về trước khi mà nợ công thường xuyên trở thành chủ đề nóng bỏng không chỉ trong các phiên họp của Chính phủ, của Quốc hội mà còn trên các diễn đàn, hội thảo về kinh tế tài chính Việt Nam.   Có thời điểm, nền kinh tế Việt Nam đối mặt với nguy cơ vỡ nợ do qui mô nợ công tăng hàng chục phần trăm mỗi năm - vượt xa tốc độ tăng trưởng kinh tế - do tăng vay nợ cả trong và ngoài nước đi đôi với rủi ro lãi suất cao và biến động mạnh tỷ giá hối đoái. Đó là chưa kể khoản bảo lãnh của Chính phủ cho doanh nghiệp nhà nước vay nợ nhưng gần như không có khả năng trả nợ đúng hạn do hoạt động yếu kém và thua lỗ kéo dài. Nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro nợ công tăng cao là thâm hụt ngân sách nhà nước triền miên với mức độ lớn, tăng trưởng kinh tế dựa vào tăng vốn đầu tư, cả vốn đầu tư toàn xã hội lẫn vốn đầu tư công trong khi hiệu quả đầu tư, đặc biệt là đầu tư công còn thấp, phổ biến tình trạng thất thoát, lãng phí, thiếu trách nhiệm trong quản lý đầu tư công, trong đó có đầu tư công từ nguồn vốn vay nợ công nên ngân sách nhà nước phải căng sức bố trí nguồn trả nợ lãi trong tổng chi ngân sách nhà nước còn nguồn trả nợ gốc luôn ở trạng thái căng thẳng. Chính vì vậy, quản lý nợ công theo Luật 2017 tập trung vào hạn chế vay mới trong khi bố trí đủ nguồn lực từ ngân sách nhà nước để thanh toán nghĩa vụ nợ đồng thời cơ cấu lại nợ để giảm áp lực trả nợ gốc. Bên cạnh đó, vay mới nợ công (bao gồm vay mới trả nợ cũ) cũng được cơ cấu lại theo hướng tăng tỷ trọng vay trong nước với lãi suất trái phiếu chính phủ đóng vai trò lãi suất chuẩn trên thị trường tài chính nên thường xuyên duy trì ở mức thấp và vay trung dài hạn thay vì vay ngắn hạn đi đôi với giảm tỷ trọng vay nước ngoài, qua đó giảm rủi ro tỷ giá hối đoái cũng như rủi ro lãi suất vay cao do Việt Nam đã qua thời kỳ được hưởng ưu đãi lãi suất mà chuyển sang lãi suất cho vay thương mại. Thêm nữa, việc phân công, phân cấp rõ ràng trong quản lý và sử dụng nợ công, kể cả nguồn vốn ODA đã tăng tính trách nhiệm trong kêu gọi và sử dụng vốn ODA.   An toàn nợ công còn là kết quả tất yếu của việc kiểm soát tốt hơn bội chi ngân sách nhà nước, củng cố và duy trì kỷ luật tài chính công,  đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư toàn xã hội cũng như đầu tư công, chống thất thoát, lãng phí trong đầu tư thông qua chiến dịch chống tham nhũng, lãng phí được triển khai sâu rộng từ trung ương đến địa phương. Theo ông Andrea Coppola, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Việt Nam đã có rất nhiều tiến bộ trong công tác quản lý nợ công và cũng đã có những cải cách quan trọng về quản lý nợ công bao gồm: tăng cường khung pháp lý, quản lý thể chế… Kết quả đạt được trong quản lý nợ công hơn 5 năm qua là rất đáng ghi nhận. Nổi bật là:   Giảm quy mô: Nợ công giữ ở mức bền vững, ổn định với quy mô đến cuối năm 2023 khoảng 37% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trần 60% Quốc hội đề ra. Bên cạnh đó, nợ chính phủ khoảng 34% GDP và thấp hơn nhiều so với trần 50%. Trên bình diện quốc tế, mức dư nợ này thấp hơn nhiều so với mức trung bình năm 2023 của các quốc gia có mức xếp hạng tín nhiệm BB là 52,8% GDP và BBB là 54,9% GDP, trong khi mức tín nhiệm của Việt Nam còn thấp hơn 1 bậc so với mức tín nhiệm BBB. Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), nợ công của một quốc gia được cho là bền vững nếu Chính phủ có thể đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ trong tương lai, không cần đến sự trợ giúp tài chính đặc biệt hoặc rơi vào cảnh vỡ nợ. Một quốc gia có thể vay nợ rất nhiều, nhưng nếu khoản vay này có lãi suất thấp, thời gian trả nợ dài và đồng tiền trả nợ bằng nội tệ, thì khả năng vỡ nợ của nước này có thể vẫn sẽ thấp.   Số liệu của IMF đưa ra vào năm 2021 cho thấy, nợ công của Việt Nam năm 2021 chỉ có 39,7%, tức là còn thấp hơn con số mà Bộ Tài chính đưa ra, tỷ lệ này nằm trong nhóm thấp nhất khu vực Đông Nam Á; đồng thời cũng ít hơn những nền kinh tế có quy mô tương tự như: Philippines, Nam Phi, Malaysia, Singapore hay Bangladesh.   Tăng tỷ trọng vay trong nước: Hoạt động cơ cấu nợ được thực hiện tích cực. Theo đó, dư nợ trong nước tăng lên, chiếm khoảng 71% dư nợ chính phủ, góp phần giảm thiểu rủi ro tỷ giá. Đến hết năm 2023, nợ trong nước chủ yếu là trái phiếu chính phủ có kỳ hạn phát hành dài, giảm thiểu rủi ro vay đảo nợ. Kỳ hạn phát hành bình quân trái phiếu chính phủ dự kiến năm 2023 khoảng 12,4 đến 12,5 năm. Điều này đảm bảo mục tiêu kỳ hạn vay từ 9 năm đến 11 năm theo Nghị quyết của Quốc hội số 23/2021/QH15 về Kế hoạch Tài chính quốc gia và Vay trả nợ công 5 năm (giai đoạn 2021-2025). Trong năm qua, lãi suất phát hành trái phiếu chính phủ được điều hành thận trọng, đảm bảo phối hợp hài hòa với điều hành chính sách tiền tệ. Cụ thể, lãi suất phát hành bình quân cả danh mục trái phiếu chính phủ dự kiến năm 2023 khoảng 3,3%/năm, giảm 0,18 điểm phần trăm so với năm 2022 trong bối cảnh lãi suất toàn cầu vẫn duy trì xu hướng tăng. Lãi suất phát hành trái phiếu chính phủ được điều hành thận trọng, đảm bảo phối hợp hài hòa với điều hành chính sách tiền tệ.   Trong năm 2023, Kho bạc Nhà nước huy động được 298.476 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, đạt 98% kế hoạch điều chỉnh của Bộ Tài chính giao cho Kho bạc Nhà nước (305.000 tỷ đồng) và tăng 39% so với cùng kỳ. Dư nợ trái phiếu chính phủ niêm yết trên thị trường tính theo thời điểm cuối năm 2023 là 1.798.875,4 tỷ đồng; cuối năm 2022 là 1.543.015,5 tỷ đồng. Kế hoạch đấu thầu trái phiếu chính phủ qua Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội năm 2024 là 400.000 tỷ đồng, bao gồm cả khối lượng phát hành cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam.   Nợ nước ngoài đang giảm dần trong cơ cấu vay của Chính phủ. Danh mục nợ nước ngoài hiện hành chủ yếu vẫn là các khoản vay kỳ hạn dài, lãi suất ưu đãi. Điều này góp phần tăng tính bền vững nợ trước biến động tỷ giá của các ngoại tệ mạnh trên toàn cầu. Tính riêng năm 2023, Bộ Tài chính tập trung hoàn thành việc đàm phán, ký kết 17 hiệp định, thỏa thuận vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài với tổng trị giá khoảng 1,87 tỷ USD, góp phần bổ sung nguồn vốn thực hiện các nhiệm vụ của chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội. Tuy nhiên, các khoản vay mới đàm phán và ký kết kể từ năm 2022 có mức lãi suất cao hơn, gần với thị trường hơn, phản ánh thay đổi chính sách cho vay của các nhà tài trợ với vị thế thu nhập trung bình thấp của Việt Nam.   Cải thiện xếp hạng tín nhiệm: Việc Tổ chức Xếp hạng Tín nhiệm Fitch nâng hạng Việt Nam từ mức BB lên mức BB+ vào tháng 12/2023 sau khi Tổ chức Moody’s và S&P nâng hạng Việt Nam từ Ba3 lên Ba2 và BB lên BB+ trong năm 2022 đều có dấu ấn từ kết quả củng cố tài khóa và kiểm soát nợ công.   Bộ Tài chính đã tích cực đẩy mạnh công tác quảng bá nhà đầu tư, triển khai có hiệu quả công tác xếp hạng tín nhiệm quốc gia, góp phần giảm chi phí huy động vốn vay của Chính phủ theo lộ trình cải thiện xếp hạng tín nhiệm quốc gia tới năm 2030. Từ năm 2021 đến nay, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm liên tục nâng triển vọng tín nhiệm, nâng bậc tín nhiệm của Việt Nam. Đến nay, Việt Nam còn cách 2 bậc đối với thang điểm của tổ chức Moody’s; cách 1 bậc đối với thang điểm của tổ chức S&P và Fitch để đạt mức Đầu tư. Đây được đánh giá là những tín hiệu tích cực, khẳng định sự đánh giá cao của các tổ chức quốc tế về triển vọng của nền kinh tế, việc thực thi các chính sách linh hoạt, sáng tạo, kịp thời và hiệu quả của Chính phủ trong việc ổn định kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh phục hồi kinh tế sau dịch có thể chấp nhận bội chi cao và vay nợ nhiều hơn trong ngắn hạn để có không gian tài khóa tốt hơn cho các nhiệm vụ phục hồi kinh tế, xã hội. Việc nhiều tổ chức quốc tế nâng xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam cũng là cơ hội tốt để huy động các nguồn vốn với lãi suất thấp hơn.   Kiểm soát nợ công chặt chẽ hơn: Bộ Tài chính tiếp tục triển khai có hiệu quả các giải pháp quản lý nợ bền vững, chương trình quản lý nợ trung hạn, kế hoạch vay, trả nợ hằng năm, quản lý chặt chẽ bảo lãnh Chính phủ và vay về cho vay lại. Năm 2023 không cấp mới bảo lãnh cho các dự án vay trong nước và nước ngoài; đồng thời, tăng cường giám sát, kiểm soát bội chi và vay nợ của ngân sách địa phương.   Tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý: Bộ Tài chính đã trình Chính phủ để trình Quốc hội Kế hoạch vay và trả nợ công 5 năm, quyết định các chỉ tiêu giới hạn an toàn nợ và các giải pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu này. Luật Quản lý nợ công năm 2017 hoàn thiện thêm một bước cơ bản khuôn khổ thể chế và chính sách quản lý nợ công, nổi bật là thống nhất đầu mối giúp Chính phủ quản lý nợ công, bổ sung các công cụ quản lý nợ công chủ động như hạn mức cho vay lại và bảo lãnh chính phủ hằng năm, chương trình quản lý nợ 3 năm và kế hoạch vay, trả nợ công hằng năm, bổ sung quy định ngưỡng cảnh báo nợ công theo thông lệ quốc tế bên cạnh khái niệm trần nợ công. Bộ Tài chính cũng phối hợp tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội ban hành các Luật sửa đổi bổ sung một số điều của các luật liên quan như Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư… Đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số Nghị định hướng dẫn Luật Quản lý nợ công như Nghị định về cho vay lại vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài, quản lý và sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài.   Gắn quản lý nợ công với quản lý đầu tư công: Nhằm mục tiêu không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng vốn vay công và cơ cấu lại nợ công, Bộ Tài chính đã linh hoạt, chủ động triển khai việc huy động vốn theo yêu cầu tiến độ giải ngân đầu tư công, theo hướng tăng các nguồn vay trong nước với lãi suất thấp, ưu đãi, thời gian vay dài, sử dụng vượt thu ngân sách để trả nợ gốc, giảm áp lực nợ công. Việc vay mới chỉ triển khai sau khi đánh giá kỹ tác động đến an toàn nợ công, chỉ sử dụng cho các công trình có hiệu quả kinh tế cao, hiệu quả xã hội cao, chỉ vay trong khả năng trả nợ. Để quản lý nợ công theo hướng bền vững, Bộ Tài chính cũng tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán nợ công, công khai thông tin nợ công.   Để đảm bảo tiếp tục quản lý hiệu quả và bền vững nợ công cần tiếp tục tăng cường quản lý nợ công và cải cách thể chế kinh tế tài chính. Trọng tâm quản lý nợ công vẫn là kiểm soát chặt chẽ tỷ lệ nợ công/GDP thông qua việc kiểm soát và điều chỉnh xem xét các yếu tố cấu thành nợ công kể cả quy định trần nợ công phù hợp với năng lực nền kinh tế cũng như chuẩn hóa phương pháp tính nợ công theo thông lệ quốc tế. Bên cạnh đó, yếu tố mật thiết gắn với quản lý nợ công chính là phải tăng hiệu quả đầu tư công. Theo lý thuyết, cứ 1% giải ngân đầu tư công tăng thêm sẽ tác động làm tăng 0,058% GDP. Một mặt cần tập trung thúc đẩy giải ngân đầu tư công, nhưng không phải giải ngân bằng mọi giá mà phải tập trung vào những dự án lớn, có hiệu quả và có sức lan tỏa cao.   Rõ ràng, với mức nợ thấp so với trần như hiện nay đã tạo ra nhiều dư địa vay nợ công để triển khai vay vốn cho những dự án lớn là động lực của nền kinh tế, tạo ra hiệu quả kinh tế nhanh nhất và bền vững nhất. Trong bối cảnh đó, các chỉ tiêu an toàn nợ công cần tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ trong giới hạn được Quốc hội phê chuẩn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và góp phần củng cố dư địa chính sách tài khóa. Bám sát chủ trương, đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước về vấn đề nợ công (như các Nghị quyết Đại hội Đảng XII, XIII, các Nghị quyết của Hội nghị Trung ương II, đặc biệt là Nghị quyết số 07 của Bộ Chính trị), Bộ Tài chính đã trình Chính phủ trình Quốc hội Kế hoạch vay và trả nợ công 5 năm, quyết định các chỉ tiêu giới hạn an toàn nợ và các giải pháp chủ yếu để đạt được các mục tiêu kinh tế tài chính.   Những năm gần đây, tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động phức tạp, cùng những hạn chế, bất cập nội tại kéo dài nhiều nhiều năm ảnh hưởng đến công tác giải ngân vốn đầu tư công. Tỷ lệ giải ngân chưa đạt kỳ vọng. Nếu tính trên kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao cộng kế hoạch vốn cân đối ngân sách địa phương giao tăng thì tỷ lệ giải ngân các năm 2021-2023 chỉ đạt hơn 80%.   Mặc dù về phía Bộ Tài chính đã có nhiều nỗ lực như ngay từ đầu năm của các kỳ kế hoạch, đã tích cực đôn đốc các bộ, cơ quan trung ương và địa phương phân bổ, tăng cường quản lý, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước. Thực hiện kiểm tra phân bổ vốn ngay sau khi nhận được phương án phân bổ, điều chỉnh phân bổ chi tiết kế hoạch vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước năm của các bộ, cơ quan trung ương để nhập và phê duyệt dự toán cho các dự án đủ điều kiện để có vốn thực hiện và có văn bản gửi từng bộ, cơ quan trung ương đề nghị điều chỉnh lại phương án phân bổ đối với các dự án chưa đúng quy định.   Bộ Tài chính cũng đã chủ động chuẩn bị đủ nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kế hoạch năm. Kho bạc Nhà nước đã đẩy mạnh triển khai dịch vụ công trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị sử dụng ngân sách có thể giao dịch 24/7 (kể cả ngày nghỉ/ngày lễ) tại bất cứ địa điểm nào có kết nối internet. Hằng tháng, Kho bạc kịp thời tổng hợp tình hình giải ngân của từng bộ, cơ quan trung ương và địa phương báo cáo Thủ tướng Chính phủ phục vụ công tác điều hành. Tuy nhiên tiến độ giải ngân vốn đầu tư công sau 9 tháng năm 2024 vẫn chưa đạt ½ kế hoạch. Để tăng tốc độ giải ngân vốn đầu tư công, cần sự tiếp tục vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ của doanh nghiệp, người dân mà trước hết là hoàn thiện thể chế, sửa Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đất đai cũng như các văn bản hướng dẫn và tổ chức thực hiện với các nội dung chủ yếu là:   - Tách phần giải phóng mặt bằng triển khai trước, phân cấp chủ quản đầu tư, nghiên cứu thêm trường hợp chủ đầu tư có thể chủ động sử dụng một số khoản kinh phí hợp pháp ngoài kế hoạch đầu tư công trung hạn (kể cả nguồn vốn chi thường xuyên) để lập dự án, chuẩn bị đầu tư trước thay vì phải đợi tổng hợp hay bổ sung vào kế hoạch đầu tư công trung hạn.   - Sửa đổi Luật Đầu tư công cần bỏ nội dung cải tạo dự án đã đầu tư xây dựng ra khỏi đối tượng đầu tư công để tăng sự chủ động của các đơn vị và thực hiện hiệu quả nhiều giải pháp khác để tăng tổng cầu đầu tư.   - Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư dự án phù hợp với quy hoạch tỉnh, quy hoạch chuyên ngành và quy hoạch sử dụng đất, đảm bảo phù hợp với định mức kinh tế kỹ thuật xây dựng, tính toán tổng mức đầu tư, dự phòng hợp lý, tránh tình trạng điều chỉnh dự án nhiều lần. Công tác lựa chọn tư vấn, nhà thầu thi công chuyên nghiệp, phân bổ kế hoạch vốn đầu tư đảm bảo đúng nguyên tắc, tiêu chí quy định tại Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư công (trước 31/12/2023).   - Các bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần bố trí vốn tập trung, không dàn trải, theo đúng thứ tự ưu tiên và đủ thủ tục đầu tư theo quy định tại Luật Đầu tư công, đặc biệt là phải bố trí vốn phù hợp với tiến độ thực hiện và giải ngân của từng dự án.   - Các dự án quan trọng quốc gia đã cơ bản hoàn thành việc phê duyệt dự án, vì vậy ngay từ đầu năm 2024 các bộ, địa phương cần triển khai quyết liệt các biện pháp để đảm bảo nguồn vốn, đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng và thực hiện các dự án quan trọng quốc gia.   - Duy trì hoạt động của 5 Tổ công tác của Chính phủ về thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công và 26 Đoàn công tác do thành viên Chính phủ làm trưởng đoàn thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Tại các bộ, cơ quan trung ương và địa phương tiếp tục thành lập các tổ công tác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan làm tổ trưởng để chủ động xử lý, tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn một cách kịp thời.   Tóm lại, quản lý nợ công tại Việt Nam đã có nhiều tiến bộ vượt bậc đem lại những kết quả khả quan, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô, củng cố an ninh tài chính quốc gia. Quản lý nợ công cần tiếp tục hoàn thiện, cả về thể chế và kỹ thuật theo hướng phù hợp hơn với thông lệ và chuẩn mực quốc tế, đồng thời gắn quản lý nợ công với quản lý ngân sách nhà nước và quản lý đầu tư công trong một thể thống nhất đi đôi với áp dụng công nghệ mới như AI, blockchain, Icloud… trong quản lý vay và sử dụng nợ công. Ngoài ra, công khai minh bạch nợ công cần đẩy mạnh theo cả chiều rộng và chiều sâu, đảm bảo tính hệ thống, cập nhật và chi tiết hơn.

ĐẨY MẠNH CƠ CẤU LẠI TÀI CHÍNH CÔNG VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC

GS,TS. Đoàn Xuân Tiên Nguyên Phó Tổng Kiểm toán nhà nước     1. Một số nét khái quát về cơ cấu lại tài chính công và định hướng tái cơ cấu tài chính công giai đoạn 2021-2030 ​ 1.1. Mục đích, ý nghĩa tái cơ cấu tài chính công ​ Tài chính công là một bộ phận hợp thành nền hành chính của quốc gia, là công cụ đảm bảo nguồn lực tài chính cho việc tồn tại và hoạt động có hiệu quả của Nhà nước. Tài chính công đóng vai trò định hướng cho hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế, từ việc huy động các nguồn lực, phân bổ nguồn lực, ngân sách nhà nước, chi tiêu công, đầu tư qua các chính sách về thuế, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả hoạt động, định hướng đầu tư, tiêu dùng, điều chỉnh cơ cấu của nền kinh tế theo lãnh thổ, ngành nghề, lĩnh vực... ​ Cải cách tài chính công là xu hướng phổ biến của các quốc gia trên thế giới vì yêu cầu đảm bảo sự vận hành của nền hành chính, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Cải cách tài chính công là 1 trong 6 nội dung của cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 theo Nghị quyết 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ, đó là: Cải cách thể chế; cải cách thủ tục hành chính; cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; cải cách chế độ công vụ; cải cách tài chính công và xây dựng, phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số. Trong đó, cải cách tài chính công là một nhiệm vụ quan trọng, góp phần thúc đẩy, bổ trợ cho các nhiệm vụ khác, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Cải cách tài chính công là cải cách việc thu - chi ngân sách nhà nước (là bộ phận quan trọng nhất), doanh nghiệp nhà nước, tín dụng nhà nước, tài chính các cơ quan hành chính nhà nước, tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước…, nhằm đảm bảo cho yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh quốc gia. ​ Cụ thể, cải cách tài chính công bao gồm 6 nội dung cơ bản là: (1) Cải cách thể chế liên quan đến pháp luật tài chính; (2) Cơ cấu lại thu - chi ngân sách nhà nước; (3) Cơ cấu lại nợ công đảm bảo an toàn nợ công; (4) Cơ cấu lại, điều chỉnh cơ cấu đầu tư công tích cực, hiệu quả gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; (5) Cơ cấu sắp xếp lại, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; (6) Đổi mới, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập và cơ chế tài chính tự chủ. ​ Cơ cấu lại tài chính công là nội dung cốt lõi và bao trùm hoạt động cải cách, đổi mới tài chính công. Cơ cấu lại tài chính công là quá trình (việc) xem xét và cấu trúc lại một hoặc một số hoặc toàn bộ các nội dung liên quan đến tài chính công như: cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cơ cấu lại nợ công, cơ cấu lại đầu tư công, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập. Đó cũng chính là quá trình điều chỉnh và cải cách các thành phần của tài chính công nhằm nâng cao hiệu quả, tính minh bạch, và khả năng đáp ứng của hệ thống tài chính nhà nước; đề cập đến việc tái tổ chức, điều chỉnh cách thức thu chi, quản lý và phân bổ nguồn lực tài chính của nhà nước để phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu quả hơn. Mục tiêu của cơ cấu lại tài chính công là: Tăng cường hiệu quả sử dụng ngân sách; cải thiện tính minh bạch; đảm bảo bền vững tài chính. Thông qua các biện pháp, như: Cải cách thuế; tái cấu trúc chi tiêu công; cải cách quản lý ngân sách, áp dụng các phương pháp quản lý hiện đại, để nâng cao trách nhiệm và hiệu quả trong sử dụng ngân sách. Cơ cấu lại tài chính công có mục đích góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững, như: Tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực; Tối ưu hóa ngân sách, đảm bảo rằng các khoản chi tiêu được phân bổ hợp lý, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong sử dụng ngân sách; Cải cách hệ thống thuế; Nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình; Đảm bảo tính bền vững tài chính. Cải cách tài chính công có ý nghĩa, như: (i) Thúc đẩy phát triển kinh tế, tăng trưởng bền vững, tạo ra môi trường thuận lợi cho đầu tư và phát triển kinh tế; đẩy mạnh phát triển hạ tầng do nguồn lực tài chính được phân bổ hợp lý sẽ giúp đầu tư vào hạ tầng, tạo động lực cho tăng trưởng. (ii) Cải thiện đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu của người dân, tăng cường đầu tư vào các lĩnh vực như giáo dục, y tế và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, giúp giảm thiểu bất bình đẳng trong phân phối nguồn lực. (iii) Tăng cường niềm tin của người dân do đảm bảo minh bạch và trách nhiệm. (iv) Nâng cao tính cạnh tranh quốc gia, nâng cao vị thế quốc gia do hệ thống tài chính công hiệu quả sẽ giúp quốc gia tăng cường vị thế cạnh tranh trên trường quốc tế, hấp dẫn đầu tư nước ngoài, môi trường tài chính minh bạch và ổn định sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. ​ Như vậy, cơ cấu lại tài chính công là một bước quan trọng để cải thiện quản lý tài chính nhà nước, đảm bảo rằng các nguồn lực được phân bổ hợp lý và hiệu quả, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Cơ cấu lại tài chính công không chỉ là một yêu cầu cấp thiết để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực mà còn mang lại nhiều lợi ích cho sự phát triển kinh tế - xã hội, từ việc cải thiện đời sống người dân đến nâng cao vị thế cạnh tranh của quốc gia. ​ Thực tế việc cải cách, cơ cấu lại tài chính công thời gian qua (giai đoạn từ 2016 đến nay) còn những hạn chế nhất định, như: (i) Việc ban hành và tổ chức thực hiện một số cơ chế, chính sách tài chính còn chưa thực sự đồng bộ, như Luật Ngân sách nhà nước, Luật Đầu tư công, Nghị định 16/2015/NĐ-CP về tự chủ đơn vị sự nghiệp công lập, Luật Quản lý tài sản công, Nghị định 167/2017/NĐ-CP về sắp xếp, xử lý tài sản công, việc chậm thực hiện quản lý ngân sách nhà nước theo kết quả thực hiện nhiệm vụ…; (ii) Hiệu quả huy động các nguồn lực trong xã hội và huy động nguồn lực tài chính công chưa cao, tình trạng chuyển giá, trốn thuế vẫn còn tồn tại, gây thất thu cho ngân sách nhà nước, hiệu quả quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp còn hạn chế; tình trạng thất thu thuế trong các lĩnh vực thương mại điện tử…; (iii) Các cân đối tài chính vĩ mô, cân đối ngân sách nhà nước cải thiện bước đầu, nhưng chưa thật sự bền vững, thu ngân sách nhà nước chưa thật bền vững, cơ cấu ngân sách trung ương so với ngân sách địa phương trong tổng mức chi đầu tư phát triển chỉ đạt 40/60, không đạt chỉ tiêu theo Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị (Tỉ lệ huy động vào ngân sách nhà nước giai đoạn 2016-2020 bình quân khoảng 20% đến 21% GDP, phấn đấu tổng thu ngân sách bằng khoảng 1,65 lần giai đoạn 2011-2015. Trong tổng thu ngân sách nhà nước, tỉ trọng thu nội địa khoảng 84% đến 85%, tỉ trọng thu dầu thô và thu xuất nhập khẩu khoảng 14% đến 16%; tỉ trọng thu ngân sách trung ương từ 60% đến 65%); (iv) Hiệu lực, hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực công còn hạn chế, chi ngân sách nhà nước dàn trải, chồng chéo, chưa gắn kết chặt chẽ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên, chưa có cơ chế kiểm soát chi tiêu ngân sách nhà nước theo kết quả thực hiện nhiệm vụ, giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp so với kế hoạch được giao, việc phân bổ vốn ODA và vốn vay ưu đãi nước ngoài còn có những hạn chế, chưa sát thực tế, phải điều chỉnh nhiều lần…; (v) Công tác đổi mới hệ thống các tổ chức đơn vị sự nghiệp công lập chưa đáp ứng yêu cầu, việc thực hiện tự chủ tài chính chậm, mức độ tự chủ chưa cao, thực hiện lộ trình điều chỉnh giá dịch vụ sự nghiệp công lập chưa kịp thời, giá chưa tính đầy đủ các yếu tố, chưa có bước chuyển biến mang tính đột phá, chưa thực sự đồng bộ về tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế với tự chủ về tài chính...; (vi) Sắp xếp cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước không đảm bảo tiến độ; (vii) Kỷ luật, kỷ cương quản lý tài chính, đất đai, công sản, đầu tư xây dựng cơ bản còn kém hiệu quả, có nơi bị buông lỏng, dẫn đến thất thoát, lãng phí, nợ đọng thuế cao, còn tình trạng chuyển giá, trốn thuế, gây thất thu ngân sách nhà nước. ​ 1.2. Quan điểm, mục tiêu, yêu cầu và nhiệm vụ trọng tâm tái cơ cấu tài chính công giai đoạn 2021-2030 ​ Tái cơ cấu tài chính công là 1 trong 3 trụ cột của tái cơ cấu nền kinh tế ở nước ta là: Tái cơ cấu đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; tái cơ cấu các hệ thống tín dụng. Năm 2016, Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 18/11 về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công với mục tiêu tổng quát là: “Cơ cấu lại ngân sách nhà nước và quản lý nợ công theo hướng bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô; tăng cường huy động, quản lý, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội…”. Mục tiêu tổng quát về cải cách tài chính công theo Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ về cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030 đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ cơ chế phân bổ, sử dụng ngân sách nhà nước cho cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập gắn với nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra, nhằm nâng cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm và thúc đẩy sự sáng tạo; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động; kiểm soát tham nhũng tại các cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, đổi mới cơ chế quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp”. Quan điểm cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 theo Nghị quyết 31/2021/QH15 nêu rõ: “Tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế trên cơ sở kế thừa và phát triển, vừa toàn diện vừa có trọng tâm, trọng điểm; ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có dư địa lớn… và 3 lĩnh vực quan trọng là cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị trường tài chính, trọng tâm là các tổ chức tín dụng; cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước”. ​ Mục tiêu cơ cấu lại tài chính công giai đoạn 2021-2025 là: ​ (1) Về ngân sách nhà nước và nợ công: (i) Tổng thu ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 khoảng 8,3 triệu tỷ đồng (gấp 1,2 lần giai đoạn 2016-2020); tỷ lệ huy động ngân sách nhà nước bình quân khoảng 16% GDP, trong đó từ thuế, phí khoảng 13% đến 14% GDP: Thu nội địa khoảng 7,1 triệu tỷ đồng, chiếm 85% đến 86% tổng thu ngân sách nhà nước (gấp 1,2 lần giai đoạn 2016-2020), thu dầu thô khoảng 114,5 nghìn tỷ đồng (giảm hơn một nửa giai đoạn 2016-2020), chiếm khoảng 1,4% tổng thu ngân sách nhà nước, thu cân đối từ xuất nhập khẩu khoảng 1,06 triệu tỷ đồng (gấp khoảng 1,1 lần giai đoạn 2016-2020), chiếm 12% đến 13% tổng thu ngân sách nhà nước. (ii) Tổng chi ngân sách nhà nước khoảng 10,2 triệu tỷ đồng; trong đó: Chi đầu tư phát triển khoảng 2,87 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 28% tổng chi ngân sách nhà nước; Chi dự trữ quốc gia khoảng 7,1 nghìn tỷ đồng; Chi trả nợ lãi, viện trợ khoảng 668 nghìn tỷ đồng; Chi thường xuyên (gồm cả chi cải cách tiền lương) khoảng 6,4 triệu tỷ đồng, bình quân khoảng 62% đến 63% tổng chi ngân sách nhà nước. (iii) Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước cả giai đoạn 2021-2025 bình quân 3,7% GDP. (iv) Nợ công, nợ chính phủ, trong phạm vi trần nợ công không quá 60% GDP, ngưỡng an toàn nợ công khoảng 55% GDP và trần nợ chính phủ không quá 50% GDP, ngưỡng an toàn nợ chính phủ khoảng 45% GDP. ​ (2) Đến năm 2025, hoàn thành việc thể chế hóa đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập; hoàn thành lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công lập đối với một số lĩnh vực y tế, giáo dục đào tạo, giáo dục nghề nghiệp; tiếp tục giảm tối thiểu bình quân cả nước 10% đơn vị sự nghiệp công lập và 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2021; phấn đấu có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính, tiếp tục giảm 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước so với giai đoạn 2016-2020. ​ (3) Đến 2025 hoàn tất việc sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, xử lý cơ bản xong những yếu kém thất thoát của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. ​ (4) Đến 2025 quy mô thị trường vốn đạt khoảng 132% GDP, trong đó vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt 85% GDP, quy mô thị trường trái phiếu đạt 47% GDP. ​ Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 đã nêu rõ: Phấn đấu đến năm 2025 tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm, trong đó tốc độ tăng năng suất lao động ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 6,5% đến 7%/năm. Đến năm 2025, thu hẹp khoảng cách về năng lực cạnh tranh quốc gia với các nước trong nhóm ASEAN-4, đặc biệt đối với các chỉ số về thể chế, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực. Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025 bình quân 3,7% GDP. Giảm tối thiểu 10% tổng số đơn vị sự nghiệp công lập so với năm 2021, có tối thiểu 20% đơn vị tự chủ tài chính. Quy mô vốn hóa thị trường cổ phiếu đạt tối thiểu 85% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt tối thiểu 47% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu doanh nghiệp đạt khoảng 20% GDP. Tỷ trọng chi cho nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ đạt không dưới 1% GDP; số lượng doanh nghiệp thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm giai đoạn 2021-2025. Phấn đấu đạt khoảng 1,5 triệu doanh nghiệp, trong đó có khoảng 60.000 đến 70.000 doanh nghiệp quy mô vừa và lớn; tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP khoảng 55%; tối thiểu có 05 đến 10 sản phẩm quốc gia xây dựng được thương hiệu quốc tế. Phấn đấu đến hết năm 2025 có khoảng 35.000 hợp tác xã, trong đó có trên 3.000 hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất và tiêu thụ nông sản, khoảng 50% hợp tác xã nông nghiệp liên kết với doanh nghiệp theo chuỗi giá trị. ​ Yêu cầu đặt ra trong thời gian tới về cải cách, đổi mới, cơ cấu lại tài chính công ở góc độ bao trùm nhất đó là: (1) Cải cách, đổi mới tài chính công phải hướng tới mục tiêu thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc cải cách hành chính nhà nước, bảo đảm hoạt động tốt hơn, có tính chuyên nghiệp hơn, điều hành có hiệu quả hơn hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước. Hoạt động của tài chính công không chỉ có tác dụng cung cấp nguồn lực tài chính, mà điều quan trọng là phải thông qua hoạt động tài chính công để có tác động mạnh mẽ đến việc điều chỉnh tổ chức và tính hiệu quả của hoạt động bộ máy. (2) Việc cải cách, đổi mới, cơ cấu lại tài chính công phải hướng vào mục tiêu bảo đảm công bằng và hiệu quả. Nội dung đổi mới, cải cách tài chính công là đổi mới thu - chi ngân sách nhà nước, đổi mới hoạt động của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách nhà nước, đổi mới tài chính của các cơ quan công quyền, các đơn vị sự nghiệp công lập... ​ Nhiệm vụ trọng tâm của cải cách, đổi mới, tái cơ cấu lại tài chính công thời gian tới là: (i) Tiếp tục đổi mới chính sách động viên nguồn lực tài chính công theo hướng bền vững; tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thu đi đôi với cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước, hướng đến xây dựng một hệ thống thuế đồng bộ, có cơ cấu bền vững, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết, hợp lý của ngân sách nhà nước. (ii) Hoàn thiện thể chế về quản lý ngân sách nhà nước, tăng cường hiệu quả phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính ngân sách nhà nước; đổi mới, xây dựng, hoàn thiện thể chế về quản lý ngân sách nhà nước nhằm tăng cường hiệu quả phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn lực ngân sách nhà nước với quá trình tái cơ cấu kinh tế. (iii) Tiếp tục cơ cấu lại nợ công, đảm bảo an ninh, an toàn tài chính công, tiếp tục thực hiện theo nguyên tắc vốn trong nước là quyết định, vốn nước ngoài là quan trọng. (iv) Đẩy mạnh đổi mới quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp và đổi mới cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập. (v) Tăng cường tính minh bạch và công khai về ngân sách. (vi) Đẩy mạnh quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý tài chính công. (vii) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát tài chính công. ​ 2. Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong việc cơ cấu lại tài chính công ​ 2.1. Kiểm toán nhà nước là công cụ quan trọng trong kiểm tra, kiểm soát quyền lực nhà nước và vai trò trong việc cơ cấu lại tài chính công ​ Với nguyên tắc hoạt động “Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” và “Trung thực, khách quan, công khai, minh bạch”, Kiểm toán nhà nước có nhiệm vụ kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực các thông tin, báo cáo về tình hình quản lý và sử dụng tài chính công, tài sản công, việc thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu tài chính công hiệu lực, hiệu quả. Từ đó, Kiểm toán nhà nước có vai trò rất quan trọng, là một thiết chế độc lập trong kiểm soát quyền lực nhà nước trong giám sát việc quản lý, sử dụng tài chính công, cũng như cơ cấu lại tài chính công nói riêng. Vai trò đó được thể hiện cụ thể ở góc độ kiểm tra, giám sát thực hiện cơ cấu lại tài chính công như sau: ​ Một là, Đảm bảo tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao quyền quản lý, sử dụng tài chính công và việc thực hiện nhiệm vụ cơ cấu lại tài chính công đảm bảo mục tiêu, nhiệm vụ hiệu lực và hiệu quả. Kiểm toán nhà nước thực hiện kiểm toán và đưa ra các ý kiến nhận xét, đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính công, việc thực hiện nhiệm vụ cơ cấu lại tài chính công, giúp tăng cường tính minh bạch trong lĩnh vực tài chính công; kịp thời phát hiện và có bằng chứng về những dấu hiệu sai phạm, không tuân thủ pháp luật, những vi phạm tham ô, lãng phí, kém hiệu lực, hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài chính công. Trên cơ sở đó, kiến nghị xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân liên quan, kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền kịp thời ngăn chặn và xử lý các hành vi lợi dụng, vi phạm pháp luật, kém hiệu quả, hiệu lực hoạt động tái cơ cấu tài chính công, góp phần phòng ngừa, loại bỏ nguy cơ và hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng tài chính công. Đồng thời nâng cao năng lực quản lý nhà nước về quản lý, sử dụng tài chính công, việc cơ cấu lại tài chính công đáp ứng yêu cầu. ​ Hai là, Thúc đẩy hệ thống quản lý, quản trị tài chính công nói chung và việc cơ cấu lại tài chính công nói riêng của các bộ, ngành, địa phương, từng cơ quan, đơn vị, tổ chức một cách hiệu lực và hiệu quả, đúng chủ trương, định hướng theo Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về Chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công; Nghị quyết số 31/2021/QH15 của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025; Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 15/7/2021 của Chính phủ về Cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 54/NQ-CP ngày 12/4/2022 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025. Thông qua hoạt động kiểm tra hệ thống hoạt động quản lý, quản trị tài chính công, việc cơ cấu lại tài chính công, Kiểm toán nhà nước cung cấp những thông tin, báo cáo hợp lý, đáng tin cậy, đảm bảo sự toàn vẹn của hệ thống tài chính công và cơ cấu lại tài chính công, qua đó đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về những rủi ro liên quan đến việc lợi dụng, lạm dụng quyền lực, tham ô, lãng phí, không tuân thủ pháp luật trong quản lý tài chính công, việc tái cơ cấu tài chính công kém hiệu lực, hiệu quả. Trên cơ sở đó, Kiểm toán nhà nước kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính công, thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu tài chính công kém hiệu lực, hiệu quả. ​ Ba là, Kịp thời phát hiện những hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, những kẽ hở, lỗ hổng của cơ chế, chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng tài chính công nói chung, cũng như việc cơ cấu lại tài chính công nói riêng. Qua đó, kiến nghị kịp thời khắc phục những “lỗ hổng” về cơ chế, chính sách, tăng cường kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, quản trị và sử dụng tài chính công, tài sản công, cũng như thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu tài chính công; kiến nghị các giải pháp để hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan, góp phần phòng ngừa, loại bỏ nguy cơ lợi dụng quyền lực, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực và các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. ​ Tác động của hoạt động kiểm toán của Kiểm toán nhà nước đối với quản lý, minh bạch ngân sách nhà nước và cơ cấu lại tài chính công thể hiện ở một số điểm sau: ​ Thứ nhất, Góp phần làm minh bạch công tác quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước và tình hình, kết quả thực hiện cơ cấu lại tài chính công, làm giảm nguy cơ thất thoát, lãng phí ngân sách nhà nước, tăng hiệu quả, hiệu lực quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tài chính, tài sản công. ​ Thứ hai, Cung cấp cho lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ nhiều thông tin hữu ích, đáng tin cậy về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tài chính, tài sản công để lãnh đạo, điều hành, quyết định các vấn đề quan trọng. ​ Thứ ba, Cung cấp cho các cơ quan bộ, ngành, địa phương, đơn vị nhiều thông tin hữu ích, đáng tin cậy về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tài chính, tài sản công để quản lý, thực hiện điều hành và sử dụng một cách tiết kiệm, hiệu quả ngân sách nhà nước, tài chính, tài sản công. ​ Thứ tư, Kết quả kiểm toán của Kiểm toán nhà nước góp phần cung cấp thông tin toàn diện cho Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố sử dụng trong quá trình xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa phương, bảo đảm dự toán bao quát hết nguồn thu, nhiệm vụ chi, góp phần giúp Hội đồng nhân dân thực thi quyền giám sát việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; xem xét khi phê chuẩn báo cáo quyết toán ngân sách địa phương… ​ Thứ năm, Phát hiện các gian lận, vi phạm chính sách, chế độ về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước, tài chính, tài sản công và xử lý các vấn đề cơ cấu lại tài chính công, các hiện tượng tiêu cực làm thất thoát tài sản của nhà nước khi tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước; ngăn ngừa các tổ chức, cá nhân có liên quan mắc sai phạm trong quá trình xác định giá trị doanh nghiệp và xử lý các vấn đề tài chính. ​ Thứ sáu, Thông qua hoạt động kiểm toán, Kiểm toán nhà nước phát hiện những tồn tại, vướng mắc trong các văn bản quy phạm pháp luật, từ đó kiến nghị với các cơ quan chức năng có thẩm quyền để góp phần hoàn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan. ​ 2.2. Thực trạng việc kiểm toán đánh giá thực hiện nhiệm vụ tái cơ cấu tài chính công thời gian qua của Kiểm toán nhà nước ​ Từ khi thành lập (1994) đến năm 2023, Kiểm toán nhà nước đã thực hiện 3.592 cuộc kiểm toán, trong đó, 1.703 cuộc kiểm toán ngân sách, 289 cuộc kiểm toán chuyên đề, 834 cuộc kiểm toán dự án đầu tư, 692 cuộc kiểm toán doanh nghiệp nhà nước và các tổ chức tài chính, ngân hàng, 74 cuộc kiểm toán hoạt động. Tổng hợp kết quả kiểm toán, Kiểm toán nhà nước đã phát hiện và kiến nghị trên 722.290 tỷ đồng, trong đó tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước chiếm tỷ trọng trên 40% tổng kiến nghị kiểm toán. Bên cạnh đó, Kiểm toán nhà nước đã kiến nghị sửa đổi bổ sung, thay thế, hủy bỏ 2.1811 văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quản lý sai quy định hoặc không phù hợp quy định của Nhà nước và thực tiễn, kịp thời khắc phục “lỗ hổng” về cơ chế, chính sách, tránh thất thoát, lãng phí, siết chặt kỷ cương, kỷ luật tài chính, góp phần làm lành mạnh nền tài chính quốc gia; kiến nghị cơ quan có thẩm quyền chỉ đạo, tổ chức kiểm điểm trách nhiệm đối với nhiều tập thể, cá nhân có sai phạm theo quy định của pháp luật. Kết quả kiểm toán của Kiểm toán nhà nước đã được các đơn vị được kiểm toán, các đơn vị có liên quan phối hợp triển khai theo dõi và thực hiện kịp thời; trong đó kiến nghị về xử lý tài chính của Kiểm toán nhà nước được các đơn vị thực hiện khoảng trên 80% hằng năm, nếu tính lũy kế sau 05 năm, bình quân kết quả thực hiện kiến nghị đạt trên 90%. ​ Trước năm 2022, Kiểm toán nhà nước chỉ thực hiện cuộc kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước tại Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, lồng ghép việc kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách các bộ, cơ quan trung ương và địa phương khi thực hiện các cuộc kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công, kiểm toán ngân sách địa phương. Nhưng từ năm 2022 đến nay, Kiểm toán nhà nước đã đẩy mạnh kiểm toán báo cáo quyết toán của các bộ, cơ quan trung ương và địa phương bằng việc giao nhiệm vụ cụ thể như: (i) Năm 2022 thực hiện kiểm toán báo cáo quyết toán của 25/41 bộ, cơ quan trung ương, đạt tỷ lệ 61% và 60/63 địa phương, đạt tỷ lệ 95%; (ii) Năm 2023 kiểm toán 27/41 bộ, cơ quan trung ương, đạt tỷ lệ 66% và 59/63 địa phương, đạt tỷ lệ 94%; (iii) Năm 2024 sẽ thực hiện kiểm toán 31/41 bộ, cơ quan trung ương, đạt tỷ lệ 76% và 61/63 địa phương, đạt tỷ lệ 97%. Qua kiểm toán, Kiểm toán nhà nước đã chỉ ra nhiều tồn tại, bất cập trong công tác lập, thẩm định, xét duyệt quyết toán của các đơn vị dự toán, như: Một số bộ, cơ quan trung ương còn lập báo cáo quyết toán chậm, thiếu mẫu biểu so với quy định, tổng hợp một số chỉ tiêu chưa chính xác; thẩm định, xét duyệt quyết toán chậm; một số địa phương hạch toán các khoản thu chưa đúng mục lục hoặc niên độ ngân sách. Trong giai đoạn 2022-2023, việc kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước đã đạt được đột phá về quy mô và cách thức tổ chức, làm tiền đề cho việc thực hiện thành công Chiến lược phát triển Kiểm toán nhà nước đến năm 2030. Qua kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước đã phát hiện nhiều tồn tại trong quản lý, điều hành ngân sách làm cơ sở để Quốc hội ban hành các Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước (điển hình như: Nghị quyết số 53/2022/QH15 phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2020; Nghị quyết số 91/2023/QH15 phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2021…). ​ Theo nghiên cứu báo cáo kiểm toán các năm từ 2016 đến 2024 (từ khi Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 18/11/2016 về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công), cho thấy hầu hết các báo cáo kiểm toán chưa đề cập đến nội dung kiểm toán, đánh giá nội dung (nhiệm vụ) cơ cấu lại nền kinh tế/tái cơ cấu tài chính công/cơ cấu lại ngân sách nhà nước theo các Nghị quyết của Trung ương, của Quốc hội, Chính phủ. Các báo cáo kiểm toán chủ yếu tập trung vào kiểm toán thông tin, số liệu (kiểm toán tài chính) báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước. Các báo cáo kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nước đều phân tích, đánh giá, xác nhận số liệu, tình hình: lập, giao dự toán thu, chi ngân sách nhà nước; chấp hành thu ngân sách nhà nước, chấp hành  chi ngân sách nhà nước; bội chi ngân sách nhà nước; nợ công và quyết toán ngân sách nhà nước. Qua kết quả kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước các năm 2020-2023, đã cung cấp một bức tranh khá cụ thể, đầy đủ về tình hình, số liệu về lập, giao dự toán thu, chi ngân sách nhà nước; chấp hành thu ngân sách nhà nước, chấp hành chi ngân sách nhà nước; bội chi ngân sách nhà nước; nợ công của các niên độ ngân sách và chỉ rõ những tồn tại, hạn chế, sai phạm, bất cập trong quản lý ngân sách nhà nước, đặc biệt những tồn tại, hạn chế đó vẫn lặp đi lặp lại qua nhiều năm chưa khắc phục được.   2.3. Một số đề xuất tăng cường vai trò của Kiểm toán nhà nước trong việc đẩy mạnh cơ cấu lại tài chính công   Một là, Kiểm toán nhà nước tiếp tục mở rộng quy mô kiểm toán và các loại hình kiểm toán để thực hiện kiểm toán được nhiều hơn nguồn lực tài chính, tài sản công; tiếp tục nâng cao chất lượng các báo cáo kiểm toán. Tăng cường cung cấp thông tin kiểm toán cho các cơ quan dân cử để thực hiện quyền giám sát hoạt động quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Đẩy mạnh công khai thông tin và kết quả kiểm toán.   Hai là, Tăng cường tổ chức kiểm toán chuyên đề chuyên sâu về cơ cấu lại tài chính công để đánh giá tình hình và kết quả thực hiện cơ cấu lại tài chính công, trong đó tập trung vào kiểm toán hoạt động đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả các nội dung cơ cấu lại tài chính công theo các tiêu chí kiểm toán/chỉ tiêu, nhiệm vụ đã được ban hành trong các Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 31/2021/QH15, Nghị quyết 76/NQ-CP ngày 15/7/2021, Nghị quyết 54/NQ-CP ngày 12/4/2022. Nội dung tập trung kiểm toán đánh giá các nội dung cải cách tài chính công, như: Cải cách thể chế liên quan đến pháp luật tài chính; cơ cấu lại thu - chi ngân sách nhà nước; cơ cấu lại nợ công đảm bảo an toàn nợ công; cơ cấu lại, điều chỉnh cơ cấu đầu tư công tích cực, hiệu quả gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; cơ cấu sắp xếp lại, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và đổi mới, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp công lập và cơ chế tài chính tự chủ. Cụ thể cần tập trung vào việc đánh giá tính hiệu lực và hiệu quả, thực thi nhiệm vụ của các bộ, ngành, tổ chức trong việc: Ban hành và tổ chức thực hiện một số cơ chế, chính sách tài chính đảm bảo tính đồng bộ và nhất quán; hiệu quả huy động các nguồn lực trong xã hội và huy động nguồn lực tài chính công; các cân đối tài chính vĩ mô, cân đối ngân sách nhà nước; hiệu lực, hiệu quả phân bổ, sử dụng nguồn lực công; công tác đổi mới hệ thống các tổ chức đơn vị sự nghiệp công lập; sắp xếp cổ phần hóa, thoái vốn tại các doanh nghiệp nhà nước; kỷ luật, kỷ cương quản lý tài chính công, tài sản công.   Ba là, Tăng cường đào tạo đội ngũ kiểm toán viên có đạo đức nghề nghiệp và giỏi chuyên môn.   Bốn là, Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, số hóa vào hoạt động kiểm toán nói chung và kiểm toán ngân sách nhà nước nói riêng.   Kiểm toán nhà nước là một thiết chế độc lập trong bộ máy kiểm soát quyền lực nhà nước được quy định trong Hiến pháp, do Quốc hội thành lập, có vai trò quan trọng trong kiểm tra, kiểm soát việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Kiểm toán nhà nước là công cụ quan trọng và hữu hiệu của Đảng, Nhà nước trong kiểm tra, kiểm soát quyền lực nhà nước. Hoạt động của Kiểm toán nhà nước góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công. Tái cơ cấu tài chính công là vấn đề cốt lõi và bao trùm hoạt động cải cách, đổi mới quản lý thu, chi ngân sách, phân bổ nguồn lực tài chính công, với vị trí là cơ quan giám sát việc quản lý hoạt động tài chính quốc gia, Kiểm toán nhà nước có vai trò rất quan trọng, tăng cường kiểm toán hoạt động để kiểm tra, đánh giá, xác nhận, kết luận và kiến nghị đối với việc quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công nói chung và việc cơ cấu lại tài chính công nói riêng.