Đối mặt với thách thức
Áp lực và thách
thức lớn nhất trong hoạt động ngân hàng
năm 2008 chính là việc điều hành chính sách lãi suất. Chưa có năm nào
lãi suất lại có những diễn biến bất ngờ như năm 2008. Sau những điều chỉnh của
lãi suất cơ bản (LSCB), lãi suất huy động và cho vay của các ngân hàng thương
mại (NHTM) đồng loạt thay đổi theo tạo nên rất nhiều kịch tính trên thị trường
tiền tệ. Để chống lạm phát, từ ngày 1/2 đến ngày 11/6, Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) đã 3 lần tăng LSCB từ 8,25% lên tới 14%. Quyết định này khiến thị trường
tiền tệ bước vào "cơn sóng" lớn, các NHTM bước vào cuộc đua lãi suất
vô cùng quyết liệt. Hậu quả là nhiều ngân hàng cổ phần đứng trước nỗi lo mất
thanh khoản. Các DN gặp rất nhiều khó khăn tiếp cận nguồn vốn vay. Sau hơn bốn tháng, chính sách tiền tệ thắt
chặt đã chuyển sang nới lỏng với việc LSCB
liên tục được cắt giảm. Từ ngày 21/10 đến cuối năm, chỉ trong vòng 2 tháng, NHNN đã 5 lần điều chỉnh giảm LSCB
đưa từ 14% về 8,5%/năm. Ngay sau quyết định này, cuộc đua hạ lãi suất của các NHTM chính thức
bắt đầu với làn sóng hạ lãi suất lan rộng, đưa biểu lãi suất
cho vay VND trên thị trường về mức trước thời điểm xảy ra lạm phát. Thực tế,
sau những động thái chính sách của NHNN, các NHTM đã hạ thấp lãi suất cho vay.
Mức lãi suất cho vay ngắn hạn nền kinh tế của các NHTM trong tháng 12/2008 phổ
biến ở mức 12-13%/năm. Đối với một số dự án, lĩnh vực sản xuất ưu tiên như đối
tượng xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, nông dân, một số NHTM chỉ cho vay ở
mức 10-11%/năm. Đây là tín hiệu đáng mừng phù hợp với yêu cầu của nền kinh
tế, tạo điều kiện cho các DN vượt qua giai đoạn khó khăn do ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính thế giới, song theo nhiều đánh giá, việc hạ lãi suất quá nhanh
cũng gây nên sức ép lớn cho các ngân hàng nhỏ.
Bên
cạnh sự đảo chiều đầy biến động của lãi suất, năm 2008 cũng cần phải nói đến
một thách thức to lớn khác- đó chính là sự bất ổn của tỷ giá. Năm qua thị trường tỷ giá biến động
rất phức tạp. Đầu năm 2008, tỷ giá còn dao động quanh mức 16.000 – 16.200
VND/USD, đến giữa tháng 3/2008, tỷ giá “sụt hố” xuống còn 15.400 VND/USD. Đột
ngột, trung tuần tháng 6/2008, tỷ giá USD/VND đột ngột đảo chiều và tăng với
tốc độ chóng mặt, có thời điểm giá thị trường tự do lên tới 19.000-19.800
VND/USD, tạo nên cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng lẫn thị trường
tự do. Những nguyên chính dẫn tới việc tỷ giá tăng cao bao gồm: Dòng tiền ngoại
hối vào và ra không khớp nhau khi khối nhà đầu tư nước ngoài dồn vốn để đầu tư
vào đầu năm và rút vốn ồ ạt tại thời điểm tháng 5, tháng 6 và quý IV/2008; Yếu
tố tâm lý bất ổn dẫn tới việc găm giữ ngoại tệ trên cả thị trường từ DN, nhà
đầu tư và các đối tượng dân cư, thể hiện rõ nhất trong giai đoạn giữa tháng
6/2008.
Trong thời điểm
biến động đó, NHNN đã thể hiện được vai trò điều hành thị trường khi đã thực
hiện những biện pháp can thiệp quyết liệt, đúng lúc và đồng bộ góp phần bình ổn
tâm lý, tăng nguồn cung cho thị trường. Để tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt
hơn, phản ánh sát tình hình cung cầu ngoại tệ trên thị trường, phù hợp với bối
cảnh kinh tế trong nước và quốc tế, NHNN Việt Nam đã quyết định điều chỉnh biên
độ tỷ giá USD/VND 3 lần trong năm - một mật độ chưa từng có trong lịch sử (10/3: ±1%; 27/6: ±2%; 6/11: ±3%). Trước đó, trong
vòng 6 năm (2002 – 2007) biên độ tỷ giá cũng chỉ được điều chỉnh có 3 lần
(01/7/2002: ± 0,25%; 31/12/2006: ± 0,5%;
24/12/2007: ±0,75%). Năm 2008 cũng ghi nhận sự kiện lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN
đã công khai dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi có các thông tin trên
thị trường cho rằng USD trên thị trường Việt Nam đang trở nên khan hiếm. Việc công khai các thông tin về
dự trữ ngoại hối quốc gia là một bước đi trong quá trình hội nhập, tiến tới
minh bạch hoá và công khai hoá các số liệu tài chính
Một thách thức nữa trong bức tranh về hoạt động ngân hàng năm 2008 đó là áp lực từ cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu và những tác động không thuận đến hoạt động ngân hàng Việt Nam. Cuộc
khủng hoảng cho vay thế chấp nhà tại Mỹ lan rộng thành khủng khoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu vẫn chưa đến hồi kết thúc và đang tiếp tục đẩy
tình trạng nợ xấu, vỡ nợ leo thang khiến số lượng ngân hàng ở Mỹ và ở nhiều nền
kinh tế khác bị đóng cửa ngày càng tăng. Những thách thức mà các nền kinh tế
phải đối mặt trong năm 2008 diễn biến vô cùng phức tạp, khó lường. Theo đánh giá của Chính phủ và NHNN, hệ thống ngân
hàng Việt Nam chưa có mối liên hệ trực tiếp với thị trường tài chính thế giới
nên mức độ ảnh hưởng không lớn. Phản ứng đầu tiên của các ngân hàng trong nước là
rút bớt tiền gửi ở nước ngoài về, đóng bớt tài khoản thanh toán quốc tế. Các
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam khẳng định tiếp tục duy trì hoạt động và đảm
bảo an toàn. Một ảnh hưởng cụ thể từ cuộc khủng hoảng này được
xét đến ở những biến động trên thị trường ngoại tệ và xu hướng tăng lên của tỷ
giá USD/VND… Tuy nhiên, ở những ảnh hưởng gián tiếp, cuộc khủng hoảng tài
chính, và nối tiếp là suy thoái kinh tế toàn cầu, đẩy nhiều doanh nghiệp sản
xuất, xuất khẩu trong nước vào khó khăn, dẫn đến quan hệ tín dụng với các ngân
hàng thương mại bị ảnh hưởng nhất định. Nửa đầu năm gồng mình với khó khăn
thanh khoản, lợi nhuận của nhiều ngân hàng bị ảnh hưởng nặng nề. Đây là năm đầu
tiên trong khoảng 5 năm trở lại đây nhiều thành viên buộc phải điều chỉnh lại
mục tiêu kinh doanh và lợi nhuận đặt ra từ đầu năm; chiến lược tăng tốc nhanh
được chuyển sang thận trọng, ổn định và yếu tố an toàn, tăng cường quản trị
được đặt lên hàng đầu. Với lãi suất huy động cao trong phần lớn thời gian
của năm, tốc độ tăng trưởng tín dụng thấp, tín dụng bất động sản và tiêu dùng
thu hẹp, đầu tư tài chính khó khăn…, dự kiến lợi nhuận của nhiều ngân hàng
thương mại năm 2008 sẽ không đạt mục tiêu đề ra, kể cả mục tiêu đã được điều
chỉnh.
2009 – Nỗ lực vượt qua sóng cả
Do tác động của
khủng hoảng tài chính thế giới, dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới trong năm 2009 sẽ thấp hơn năm 2008; các nước
phát triển có khả năng suy thoái, các nước mới nổi và đang phát triển suy giảm
hoặc tăng trưởng ở mức thấp. Tiết kiệm, đầu tư và khối lượng vốn luân chuyển ở
các nền kinh tế suy giảm hoặc tăng trưởng với mức độ thấp so với các năm trước.
Tình hình này tác động bất lợi đối với tăng trưởng kinh tế của nước ta, vì vậy
hoạt động ngân hàng cũng sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức hơn trong
năm 2009. Trong bối cảnh này, ngành ngân hàng phải xác định trọng tâm để hành
động, tập trung sức mạnh tổng hợp duy trì tốc độ tăng trưởng bảo đảm an sinh xã
hội, đảm bảo tăng trưởng ổn định và bền vững.
Căn cứ vào nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội đã
được Quốc hội phê duyệt, NHNN xác định mục tiêu, định hướng và nhiệm vụ hoạt
động ngành Ngân hàng trong năm 2009. Theo Thống đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu, hoạt
động của ngành Ngân hàng năm 2009 tập trung vào những nhiệm vụ và giải pháp lớn
sau:
Nhiệm vụ quan
trọng trước hết là toàn ngành Ngân hàng tập trung xây dựng và hoàn thiện thể
chế pháp luật về ngân hàng phù hợp với định hướng, chiến lược phát triển ngành
Ngân hàng và lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh vực tiền tệ ngân
hàng, cụ thể là tập trung xây dựng, hoàn thiện dự án Luật NHNN, Luật Các tổ
chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Giám sát an toàn hoạt động ngân
hàng; tập trung nghiên cứu, chỉnh sửa, hoàn thiện các qui định về ngoại hối,về
đảm bảo an toàn, về cơ cấu tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng…..
Chính
sách tiền tệ bám sát mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, kiểm soát
lạm phát ở mức hợp lý, ổn định thị trường tiền tệ và bảo đảm an
toàn hệ thống ngân hàng trước những biến
động của tình hình tài chính quốc tế.
Để đạt được mục tiêu đó, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt,
đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ, kết hợp hài hoà, linh hoạt giữa điều
hành tỷ giá và lãi suất; tăng cường phối hợp với các bộ, ngành để đảm bảo nhất
quán giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách tiền tệ và
chính sách tài khóa; nâng cao hiệu quả công tác thống kê, dự báo, phản
ứng kịp thời trước những diễn biến kinh tế, tiền tệ trong nước và quốc tế; đảm
bảo tính thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Phát
triển vững chắc và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các tổ chức tín
dụng, nhằm huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và phân bổ có hiệu
quả các nguồn vốn đó cho đầu tư phát triển sản suất. Chỉ đạo các tổ chức tín
dụng thực hiện chuyển dịch cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản
xuất, xuất khẩu, phát triển nông nghiệp, nông thôn, mở rộng cho vay các doanh
nghiệp vừa và nhỏ; nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của các
tổ chức tín dụng trong nước.
Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về
thanh tra, giám sát ngân hàng và các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động ngân
hàng, đi đôi với việc củng cố bộ máy tổ chức, tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ
thanh tra ngân hàng…
Nhìn lại những
thành quả đạt được, tồn tại, hạn chế và bài học kinh nghiệm trong hoạt động
ngân hàng năm 2008, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để tin tưởng rằng, bước
sang năm 2009, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự chỉ đạo sát sao Chính
phủ, hệ thống Ngân hàng Việt Nam sẽ tiếp tục vượt qua thách thức, khó khăn,
hoàn thành tốt nhiệm vụ của Ngành, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong năm 2009.
Trần Minh Quang