Chặng đường mới của tái cơ cấu ngân hàng |  Sau 9 năm Ngân hàng Nhà nước mua lại bắt buộc 4 ngân hàng thương mại, đến nay, mới có 2 ngân hàng 0 đồng là Ngân hàng Xây dựng (CBBank) và Ngân hàng Đại dương (OceanBank) chính thức được chuyển giao bắt buộc lần lượt cho Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng Quân đội (MBBank). Ngân hàng Dầu khí Toàn cầu (GPBank) đã hoàn tất khâu định giá, Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á đang triển khai tích cực các công việc theo đề án tái cơ cấu đã được phê duyệt. Quá trình tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém rất gian nan song cũng đã đi đến một bước ngoặt mới, kỳ vọng sẽ tạo được bước đột phá trong thời gian tới. Giúp các ngân hàng yếu kém khắc phục khó khăn Ông Nguyễn Đức Long, Phó Chánh thanh tra Cơ quan thanh tra giám sát Ngân hàng Nhà nước cho biết mục tiêu của chuyển giao bắt buộc là nhằm giúp các ngân hàng yếu kém khắc phục khó khăn, đảm bảo an toàn, tuân thủ các quy định pháp luật, trước - trong và sau quá trình chuyển giao, tiền gửi của người gửi tiền hoàn toàn được đảm bảo. Theo quy định tại Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, kể từ lúc được chuyển giao, toàn bộ quyền và lợi ích của chủ sở hữu, thành viên góp vốn hay cổ đông của ngân hàng được chuyển giao bắt buộc sẽ chấm dứt. Bên nhận chuyển giao sẽ tiếp nhận và chịu trách nhiệm với toàn bộ các quyền và nghĩa vụ của ngân hàng được chuyển giao bao gồm các khoản vay, tiền gửi của khách hàng… Về quyền lợi của ngân hàng nhận chuyển giao, theo ông Long, ngân hàng nhận chuyển giao sẽ được hưởng một số cơ chế hỗ trợ như tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tốt hơn. Tuy nhiên, các cơ chế hỗ trợ này vẫn theo quy định pháp lý hiện hành, đặc biệt là Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024. Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành quy định rất nhiều quyền lợi mà bên nhận chuyển giao bắt buộc có thể được hưởng, bao gồm: Sở hữu 100% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc đối với trường hợp ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên; Không thực hiện hợp nhất báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc; Được loại trừ ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc khi tính tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất; Khoản vốn góp vào ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc không phải thực hiện trích lập dự phòng giảm giá các khoản đầu tư và được loại trừ khi tính giới hạn góp vốn, mua cổ phần của tổ chức tín dụng nhận chuyển giao.
|
Để trái phiếu doanh nghiệp phát triển bền vững |  Ths. Nguyễn Diệu Thương Trường quốc tế, đại học quốc gia hà nội Thị trường trái phiếu doanh nghiệp được nhận định là đã qua giai đoạn khó khăn nhất song những điểm bất cập của thị trường vẫn chưa được giải quyết căn bản. Để thị trường phát triển sâu rễ bền gốc, cần bắt đầu bằng việc cải thiện niềm tin của nhà đầu tư từ sự minh bạch trong hoạt động và công bố thông tin của doanh nghiệp, cơ chế giám sát chặt chẽ của cơ quan chức năng với khuôn khổ pháp lý hoàn thiện theo hướng “nuôi dưỡng” cả doanh nghiệp và nhà đầu tư. Đã vượt qua giai đoạn khó khăn nhất Theo số liệu từ FiinGroup, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp đạt 240 nghìn tỷ đồng từ đầu năm đến ngày 13/8/2024, tăng 102% so với cùng kỳ năm ngoái, giúp quy mô lưu hành đạt 1,21 triệu tỷ đồng, tương đương khoảng 11,7% GDP năm 2023. Về cơ cấu phát hành, trái phiếu do ngân hàng phát hành đạt 136,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 68%; trái phiếu bất động sản đạt 43,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,54% tổng giá trị phát hành tính từ đầu năm 2024. Số dư nợ trái phiếu (cả gốc và lãi) đến hạn trong năm 2024 ở mức 315 nghìn tỷ đồng và năm 2025 đạt đỉnh ở mức 334 nghìn tỷ đồng. Riêng trái phiếu bất động sản, số dư nợ đến hạn năm 2024 hiện ở mức 60 nghìn tỷ đồng và năm 2025 ước tính ở mức 135 nghìn tỷ đồng. Ông Trần Phú Việt, Trưởng phòng Phòng nghiên cứu và phát triển sản phẩm, Bộ phận Dữ liệu tài chính FiinGroup cho biết, tình hình chậm trả đã giảm khá nhiều so với đỉnh điểm năm 2023, đặc biệt là trái phiếu bất động sản do các tổ chức phát hành đã chủ động đàm phán với nhà đầu tư tái cơ cấu nợ trái phiếu. TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, giai đoạn khó khăn nhất của thị trường là giai đoạn tháng 6/2023 đến tháng 8/2023. Sau đó, Nghị định 08/2023/NĐ-CP ban hành và có hiệu lực (đặc biệt trong đó có quy định cho phép đàm phán để giãn thời hạn trả nợ) giúp cho thị trường bước qua giai đoạn khó khăn nhất. Thực hiện quy định này, có khoảng 60% doanh nghiệp đã gia hạn được 2 năm (điểm rơi tháng 6/2025), doanh nghiệp chủ động mua lại trái phiếu theo điều kiện phát hành và bắt đầu phát hành trở lại giảm áp lực vốn. Ngoài ra, thị trường bất động sản ấm lên, doanh nghiệp sẵn sàng bán tài sản để trích ra một phần trả nợ. Ở chiều ngược lại, vấn đề bất cập đầu tiên của thị trường trái phiếu doanh nghiệp được TS. Cấn Văn Lực nhắc đến là niềm tin thị trường. Dù đến nay, các cơ quan chức năng đã xử lý cơ bản các trường hợp sai phạm xảy ra trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp thời gian qua nhưng cần nhiều thời gian để củng cố niềm tin của thị trường và nhà đầu tư. Bên cạnh đó, rủi ro trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn và quá hạn thanh toán còn cao, với ước tính khoảng 27% trái phiếu đáo hạn có nguy cơ không trả nợ đúng hạn trong 12 tháng tới, trong đó bao gồm 65% trái phiếu đã chậm trả trước đó. Bên cạnh đó, theo vị chuyên gia này, vẫn còn một số điểm đáng lo ngại với triển vọng phát triển thị trường trong thời gian tới. Trước hết, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang phát triển chủ yếu dựa vào trái phiếu doanh nghiệp phát hành riêng lẻ. Theo Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam (VBMA), tỷ lệ phát hành riêng lẻ trên thị trường trong 7 tháng đầu năm 2024 vào khoảng 92%, và con số của giai đoạn trước cũng tương tự, thậm chí còn cao hơn. Cơ cấu nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Ngân hàng thương mại hiện nay đang là bên mua chính trong các đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp, trong khi các nhà đầu tư tổ chức khác như công ty bảo hiểm, quỹ hưu trí, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán... còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Hạ tầng công nghệ thông tin, dữ liệu còn bất cập, một số thông tin về quy mô phát hành, cơ cấu nhà đầu tư chưa được cập nhật đầy đủ, kịp thời. Từ góc độ nhà quản lý, đại diện Bộ Tài chính, ông Tô Trần Hòa, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển thị trường chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước nhìn nhận thị trường trái phiếu doanh nghiệp đã có những bước tiến tích cực trong thời gian qua. Trong đó, điểm đáng chú ý là hệ thống giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ đã chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 19/7/2023, giúp tăng thanh khoản cho thị trường, thúc đẩy thị trường trái phiếu doanh nghiệp phục hồi và hoạt động ổn định. Sau 1 năm đi vào vận hành, tính đến thời điểm cuối tháng 7/2024, giá trị trái phiếu doanh nghiệp niêm yết đạt khoảng 773 nghìn tỷ đồng, với 1.043 mã trái phiếu của 264 tổ chức phát hành được ghi nhận trên hệ thống giao dịch trái phiếu doanh nghiệp của Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội. Dù vậy, theo ông Tô Trần Hòa, thị trường vẫn còn một số điểm hạn chế, đáng ngại là tình hình tài chính không ổn định của một số tổ chức phát hành, thiếu minh bạch về thông tin tài chính dẫn đến nguy cơ không trả được nợ khi đến hạn. Chất lượng cung cấp dịch vụ của các tổ chức cung cấp dịch vụ trên thị trường còn chưa cao như: có hiện tượng lách quy định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, không cung cấp đầy đủ thông tin về trái phiếu doanh nghiệp, mời chào nhà đầu tư chuyển tiền gửi tiết kiệm sang mua trái phiếu doanh nghiệp, sản phẩm tiết kiệm linh hoạt... Mấu chốt là tính minh bạch Về các giải pháp phát triển thị trường trong thời gian tới, ông Tô Trần Hòa cho rằng, việc cải thiện tính minh bạch, tăng cường quản lý và giám sát, cũng như nâng cao chất lượng tổ chức phát hành là những giải pháp cần thiết để khắc phục các bất cập nêu trên. Theo đó, cần tập trung thúc đẩy việc chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra công chúng gắn với niêm yết; khuyến khích các doanh nghiệp phát hành đa dạng các loại trái phiếu phù hợp với nhu cầu huy động vốn; phát triển các sản phẩm trái phiếu doanh nghiệp cho mục tiêu thực hiện dự án, dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP) nhằm thúc đẩy huy động vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng. |
Giải ngân vốn đầu tư công vẫn "đủng đỉnh đầu năm, vắt chân cuối năm", giải pháp nào cho hiệu quả? |  ThS Ngô Thị Thu Hà Học viện Báo chí và Tuyên truyền Mặc dù Chính phủ đã đưa ra nhiều biện pháp đẩy mạnh tiến độ, nhưng việc giải ngân vốn đầu tư công tại nhiều địa phương vẫn diễn ra chậm chạp, dẫn đến tình trạng "đủng đỉnh đầu năm, vắt chân lên cổ cuối năm". Để khắc phục tình trạng này, theo các chuyên gia, các bộ, ngành và địa phương cần xây dựng kế hoạch chi tiết, giám sát chặt chẽ tiến độ thực hiện dự án và đưa ra các giải pháp quyết liệt nhằm đảm bảo tiến độ giải ngân theo đúng kế hoạch đã đề ra. Giải ngân vốn đầu tư công mới đạt hơn 32% tổng kế hoạch Năm 2024 được xác định là năm bản lề trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, với mục tiêu đặt ra là tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công phải đạt trên 95% kế hoạch. Giải ngân vốn đầu tư công không chỉ là một nhiệm vụ kỹ thuật mà còn là một trong những động lực chính thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, theo báo cáo của Bộ Tài chính, tiến độ giải ngân vốn đầu tư công trong nửa đầu năm 2024 đã không đạt được như kỳ vọng. Theo số liệu mới được Bộ Tài chính công bố, ước thanh toán vốn đầu tư công từ đầu năm đến ngày 31/7/2024 vào khoảng 232.091 tỷ đồng, tức mới đạt 32,22% tổng kế hoạch, tương đương 34,68% kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ giao. Con số này cho thấy một sự chậm trễ đáng kể, đặc biệt là khi so sánh với mục tiêu trên 95% mà Chính phủ đặt ra. Điều này đặt ra một áp lực lớn lên các bộ, ngành, và địa phương trong những tháng cuối năm. Một trong những nguyên nhân chính khiến tiến độ giải ngân vốn đầu tư công chậm trễ là do nhiều bộ, ngành và địa phương chưa phân bổ chi tiết vốn cho các dự án. Theo Bộ Tài chính, đến hết tháng 7/2024, vẫn còn 19/44 bộ, cơ quan trung ương và 28/63 địa phương chưa phân bổ hoặc phân bổ chưa hết kế hoạch vốn đã được Thủ tướng Chính phủ giao. Tổng số vốn chưa phân bổ chi tiết lên đến 21.115,6 tỷ đồng, chiếm 3,16% kế hoạch vốn đầu tư công cả nước. Điều này không chỉ gây lãng phí nguồn lực mà còn làm giảm hiệu quả của các chính sách kích cầu kinh tế mà Chính phủ đã đề ra. Ngoài ra, các vướng mắc liên quan đến cơ chế, chính sách về đất đai, quy hoạch, và đấu thầu cũng là những yếu tố gây cản trở lớn. Đặc biệt, công tác giải phóng mặt bằng - một trong những khâu quan trọng nhất trong các dự án đầu tư công - vẫn gặp nhiều khó khăn. Các dự án trọng điểm giao thông, bao gồm việc xây dựng đường bộ cao tốc và các công trình hạ tầng giao thông quan trọng khác, đều đang bị trì hoãn do thiếu mặt bằng và nguồn cung ứng nguyên vật liệu.
|
Chủ động sử dụng và ứng phó với phòng vệ thương mại |  TS. Nguyễn Minh Phong Nguyên Phó Trưởng ban Tuyên truyền lý luận, Báo Nhân dân 1. Xu hướng sử dụng và hệ lụy của sử dụng phòng vệ thương mại Cùng với xu hướng tự do hóa thương mại, trong những năm gần đây, xu thế bảo hộ thông qua sử dụng các biện pháp phòng vệ thương mại cũng đang diễn biến theo nhiều cách thức, mức độ khác nhau, kể cả tại một số nền kinh tế lớn. Về nguyên tắc, để bảo hộ mậu dịch, các nước có thể dùng phối hợp các công cụ bảo hộ thuế quan và phi thuế quan. Chúng có thể có nhiều hình thức, bao gồm: Thuế và các hàng rào phi thuế quan. Nhưng xu hướng hiện nay là ngày càng giảm các hàng rào thuế quan và gia tăng các công cụ phi thuế quan, bao gồm: cấm nhập khẩu; hạn ngạch nhập khẩu; giấy phép nhập khẩu; giấy phép xuất khẩu, hạn ngạch nhập khẩu, trợ cấp, tự nguyện hạn chế xuất khẩu, yêu cầu nội địa hóa, lệnh cấm vận, giá nhập khẩu tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, giá xuất khẩu tối thiểu và giá hành chính; các yêu cầu thanh toán trước; tiền gửi nhập khẩu trước; yêu cầu giới hạn tiền mặt; trả trước thuế hải quan; tỷ giá hối đoái đa dạng; quản lý ngoại hối; thuế nội địa đối với nhập khẩu (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng); biện pháp về hành chính kĩ thuật (bao gồm hình thức hàng đổi hàng, đặt cọc, thủ tục hải quan, mua sắm chính phủ, quy tắc xuất xứ, chất lượng, an toàn hoặc kích thước, kí hiệu, thử nghiệm và các phương pháp thử nghiệm, đóng gói, đóng dấu, và các yêu cầu dán nhãn cho một sản phẩm)… Các biện pháp phòng vệ thương mại là tên gọi chung của ba nhóm biện pháp: chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. Các biện pháp này được ghi nhận cả trong khuôn khổ Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và trong các hiệp định thương mại tự do song phương và khu vực được các quốc gia trên thế giới ký kết. Theo đó, các quốc gia có quyền tăng thuế nhập khẩu hoặc áp dụng một số biện pháp hạn chế nhập khẩu phù hợp, nếu xác định rằng việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu là nguyên nhân gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước.
|
Những giải pháp bình ổn thị trường vàng |  TS. Ngô Trí Trung Phó chủ nhiệm Khoa Kinh doanh và Quản lý Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Á Châu Thực trạng và nguyên nhân của sự bất ổn của thị trường vàng Từ tháng 8/2023 đến nay, giá vàng quốc tế liên tục tăng mạnh, cuối năm 2023 giá vàng tăng mức 2.000 USD/ounce. Bước sang năm 2024 giá vàng thế giới đã tạo “sóng mới”, liên tục lập đỉnh mới, chốt phiên cao kỷ lục 2.413,8 USD/ounce vào ngày 19/4. Trong nước, giá vàng SJC đã có lúc đạt đỉnh vào ngày 10/5/2024 ở mức 92.400.000 VND. Đây là mức giá cao nhất trong lịch sử của thị trường vàng Việt Nam. Từ đầu tháng 12/2023 đến nay, giá vàng trong nước diễn biến tăng bất thường. Biến động giá vàng xảy ra tăng có những thời điểm liên tiếp nhau. Thậm chí, có những ngày giá vàng leo dốc một cách thẳng đứng, biên độ thay đổi giá rất lớn qua mỗi lần tăng. Có thời điểm tăng 2 triệu, rồi giảm sốc 3 triệu/ lượng; giá mua- giá bán cách nhau 3 triệu đồng đến 4 triệu đồng/lượng, trong ngày mức giá thay đổi đến 20 lần; chênh lệch so với giá thế giới có thời điểm lên đến 20 triệu đồng/lượng. Bất chấp giá vàng lên cao nhất lịch sử, Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh xảy ra cảnh người dân đội nắng, xếp hàng chen chúc chờ mua vàng. Thực trạng đó cho thấy thị trường vàng nước ta đang bất ổn. Vậy nguyên nhân của sự bất ổn đó là gì? Về nguyên nhân bên ngoài, giá vàng thế giới tăng mạnh, có thời điểm tăng 2.413,8 USD/ounce. Dự báo của các tổ chức quốc tế cuối năm nay giá vàng có thể lên đến 2.500 USD/ounce, thậm chí đến 2.600 USD/ounce. Trước đà tăng của giá vàng thế giới, giá vàng miếng SJC trong nước diễn biến tăng theo một cách bất thường, cao hơn giá thế giới trên 20%. Về nguyên nhân nội tại trong nước gây sự bất ổn của thị trường vàng: (i) Do mất cân đối cung - cầu, khi sức cầu tăng, nguồn cung hạn chế đẩy giá vàng lên cao. Cầu tăng cao một phần do “lướt sóng”, phần khác là nhu cầu tích lũy. Người dân Việt Nam có thói quen giữ vàng để đảm bảo tài sản và đầu cơ, nhất là khi nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Giá vàng quốc tế đang có xu hướng tăng, dự báo sẽ tăng mạnh đang tạo ra một lực hấp dẫn trong các kênh đầu tư, nhất là trong thời điểm hiện nay. Vàng có tính thanh khoản tốt, nên được nhiều người dân quan tâm. |
Blockchain có thể thay thế ngân hàng và luật sư | 
(khoahockiemtoan.vn) -
Trong một báo cáo mới nhất về blockchain (sổ cái đại chúng) mang tên “Blockchain và tương lai ngành kế toán” của Viện kế toán Công chứng Anh và xứ Wales (ICAEW) thì công nghệ này đang tạo sự thay đổi trong hoạt động nghề nghiệp ở ngành tài chính - kế toán và có thể thay thế chức năng của ngân hàng cũng như nghề luật sư. |
|