Qua 6 năm tổ chức thực hiện, Luật NSNN đã phát huy
được những mặt tích cực, nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản
nhà nước, góp phần quan trọng và những thành công trong quá trình điều hành
ngân sách và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên trong thực hiện Luật NSNN cũng bộc
lộ những vấn đề cần trao đổi, thảo luận để tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện, tạo
khuôn khổ pháp lý đủ mạnh, tăng cường hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn lực
của NSNN và phù hợp với điều kiện phát triển trong giai đoạn mới. Thông qua hoạt
động kiểm toán NSNN có thể đánh giá khái quát một số nội dung chủ yếu sau:
Những
kết quả đạt được qua 6 năm thực hiện Luật NSNN
Thứ nhất: Luật NSNN đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho
việc quản lý chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả NSNN; tăng tích lũy nhằm thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
nhân dân, đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại; nâng cao thẩm quyền của Quốc
hội, cơ quan của Quốc hội, Hội đồng nhân dân; trách nhiệm và quyền hạn chính phủ,
các bộ ngành trung ương, các địa phương và đơn vị sử dụng NSNN.
Thứ hai: Luật NSNN đã tạo điều kiện cho việc thực hiện
quản lý tập trung thống nhất NSNN; bảo đảm quyền quyết định của Quốc hội và việc
điều hành thống nhất của Chính phủ đối với NSNN; đảm bảo vai trò chủ đạo của
ngân sách trung ương đồng thời tăng cường phân cấp quản lý, tạo thế chủ động gắn
với tăng cường trách nhiệm cho chính quyền địa phương. Việc phân cấp quản lý, sử
dụng ngân sách tương đối rõ ràng, cụ thể góp phần nâng cao trách nhiệm, quyền hạn
của các bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương và các đơn vị trong quản lý,
sử dụng NSNN.
Thứ ba: Cải cách và đổi mới toàn diện trong từng
khâu của quá trình ngân sách (lập, chấp hành, kế toán và quyết toán ngân sách).
Vai trò của dự toán trong việc quản lý điều hành ngân sách đã được coi trọng;
qui trình chi ngân sách được đổi mới, chuyển từ hình thức cấp phát bằng hạn mức
sang phương thức các đơn vị sử dụng ngân sách được căn cứ vào nhiệm vụ, tiêu
chuẩn, định mức, chế độ chi để rút kinh phí theo dự toán được cấp có thẩm quyền
giao; vai trò kiểm soát chi của Kho bạc nhà nước được tăng cường; tính chủ động
và tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sử dụng ngân sách được nâng cao; tăng cường
vai trò thanh tra, kiểm tra, kiểm toán gắn với xử lý trách nhiệm. Dự phòng ngân
sách và dự trữ tài chính được qui định cụ thể tạo thế chủ động cho NSNN để thực
hiện các nhiệm vụ cấp bách, phòng chống thiên tai, dịch bệnh; thực hiện công
khai ngân sách được đẩy mạnh.
Thứ tư: Tăng cường thực hiện và tính chủ động của Quốc
hội và Hội đồng nhân các cấp trong việc quyết định dự toán ngân sách, quyết định
phân bổ ngân sách và phê chuẩn quyết toán NSNN.
Thứ năm: Việc phân bổ, giao dự toán ngân sách dần dần
phù hợp với thực tế và đặc thù của các đơn vị đồng thời Luật cũng qui định rõ về
cách thức và thời gian phân bổ ngân sách đồng thời yêu cầu việc phân bổ và giao
dự toán toán phải khớp đúng tổng mức, chi tiết theo từng lĩnh vực của dự toán
NSNN được cấp có thẩm quyền giao tạo sự minh bạch trong phân chia ngân sách và
tíh chủ động cho các đơn vị sử dụng ngân sách.
Tuy
nhiên qua kiểm toán NSNN cho thấy, Luật NSNN và việc thực hiện Luật NSNN đã bộc
lộ những hạn chế cần được sửa đổi bổ sung, cụ thể:
1. Về qui định về lập, phân bổ, giao dự toán
- Theo các qui định hiện hành của Luật NSNN và các
văn bản hướng dẫn Luật, thời gian lập dự toán NSNN bắt đầu từ trước ngày 31/5
năm trước (khi Chính phủ quyết định lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự
toán NSNN năm sau), Bộ Tài chính hướng dẫn và thông báo số kiểm tra trước ngày
10/6, các bộ, ngành cơ quan trung ương lập và gửi dự toán cho Bộ tài chính, Bộ
Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 20/7, các địa phương gửi trước ngày 25/7. Như vậy,
thời gian qui định lập dự toán, tổng hợp dự toán từng cấp đơn vị cơ sở, Bộ
ngành, địa phương chưa phù hợp (chỉ khoảng 35-40 ngày). Các cơ quan tham gia thẩm
định không có điều kiện nghiên cứu tài liệu để tham gia ý kiến. Điều này làm hạn
chế sự tham gia của các cơ quan hữu quan vào dự toán NSNN kể cả việc thẩm định
và có ý kiến vào dự toán NSNN của Kiểm toán Nhà nước.
- Trách nhiệm xem xét, tổng hợp dự toán còn phân tán
chưa tập trung dẫn đến thiếu sự gắn kết giữa dự toán chi đầu tư và chi thường
xuyên: Theo qui định hiện hành, cơ quan kế hoạch đầu tư các cấp chủ trì việc lập
và phân bổ dự toán chi đầu tư sau đó gửi cơ quan tài chính để tổng hợp chung
vào dự toán NSNN; cơ quan tài chính chủ yếu tập trung lập, phân bổ dự toán chi
thường xuyên nhưng quá trình chấp hành, quyết toán chi ngân sách (đầu tư và thường
xuyên) lại chỉ do cơ quan tài chính thực hiện dẫn đến các bộ, ngành địa phương
phải thảo luận dự toán với cả hai cơ quan (cơ quan tài chính, cơ quan kế hoạch
và đầu tư), các cơ quan có trách nhiệm thẩm định, tham gia ý kiến vào dự toán
ngân sách (kể cả Kiểm toán Nhà nước) không có điều kiện tham gia thảo luận về lập,
phân bổ chi đầu tư phát triển cho mùa kế hoạch hàng năm. Bộ Tài chính có tổ chức
hội nghị thảo luận dự toán NSNN chủ yếu là nhiệm vụ về chi thường xuyên. Đồng
thời tách biệt giữa trách nhiệm lập dự toán với việc tổ chức thực hiện và quyết
toán chi đầu tư phát triển dễ dẫn đến bố trí vốn đầu tư phân tán, dàn trải. Kết
quả kiểm toán cho thây việc bố trí vốn đầu tư dàn trải đã diễn tra trong thời
gian dài, chậm được khắc phục, những kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước về tình
trạng này hầu như ít có tác dụng.
Chưa xác định rõ yêu cầu nội dung cụ thể trong việc
lập, phân bổ dự toán chi chương trình mục tiêu quốc gia, dự toán chi theo các lĩnh
vực nên khó đảm bảo sự tập trung thống nhất. Trách nhiệm báo cáo của bộ, ngành
địa phương về tình hình thực hiện các năm trước về dự kiến các nhiệm vụ chi cho
chương trình mục tiêu quốc gia và chi theo lĩnh vực chưa được qui định cụ thể dẫn
đến các cơ quan chủ trì lập dự toán không có đủ căn cứ, số liệu để lập dự toán;
các cơ quan tham gia thẩm định dự toán không có căn cứ, số liệu để đánh giá dự
toán. Kết quả kiểm toán cho thấy có bộ, ngành nhiều năm không lập dự toán chi
theo lĩnh vực; hoặc lập sơ sài, thiếu thuyết minh tính toán, chất lượng dự toán
thấp.
- Luật chưa qui định giới hạn thời gian điều chỉnh dự
toán. Thực trạng này dẫn đến nhiều bộ ngành địa phương kéo dài thời gian và số
lần điều chỉnh dự toán (diễn ra cả ở những ngày cuối tháng 12) làm ảnh hưởng đến
tính chủ động của các đơn vị sử dụng ngân sách do khi nhận được dự toán bổ sung
chỉ còn rất ít ngày để tổ chức thực hiện. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn
đến chi chuyển nguồn lớn.
- Luật NSNN hiện hành chưa có qui định về thẩm quyền,
trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước trong công tác lập dự toán và quyết toán
NSNN, tham gia xây dựng, thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh về tài chính ngân
sách, trong khi những quy định này đã được thể hiện trong Luật KTNN. Đây là điều
khó khăn cho cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong quá trình thực hiện nhiệm vụ nhất
là đối với công tác dự toán, công tác tham gia xây dựng, thẩm tra các dự án luật,
pháp lệnh về tài chính ngân sách.
2. Về phân cấp quản lý ngân sách
- Hệ thống NSNN hiện nay còn mang tính lồng ghép nên
qui trình ngân sách (khâu dự toán và quyết toán) khá phức tạp và nếu HĐND tuân
thủ phương án phân bổ ngân sách của ngân sách cấp trên thì việc quyết định dự
toán của HĐND chỉ mang tính hình thức, nếu không tuân thủ thì dẫn đến quyết định
dự toán của Quốc hội hoặc HĐND cấp trên không được cấp dưới tuân theo. Việc đưa
ra kết luận, kiến nghị kiểm toán cũng sẽ rất khó khăn nhất là trong các trường
hợp việc không tuân thủ các quyết định của cấp trên nhưng lại phù hợp với tình
hình thực tế của địa phương, mang lại hiệu quả mà không làm lãng phí ngân sách,
tiền và tài sản nhà nước.
- Một số địa phương chưa chủ động phân cấp nguồn thu
và nhiệm vụ chi cho cấp dưới mặc dù Luật NSNN đã qui định rõ thẩm quyền thuộc về
địa phương. Phân cấp nguồn thu cho ngân sách xã cũng chưa hợp lý, các xã đều được
hưởng tối thiểu 70% của 5 khoản thu (thu thuế chuyển quyền sử dụng đất; thuế
nhà, đất; thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông
nghiệp thu từ hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà, đất) dẫn đến quá trình thực hiện
một số xã thừa nguồn để thực hiện nhiệm vụ chi trong khi có xã nguồn thu chưa đảm
bảo được nhiệm vụ chi.
- Về ngân sách địa phương hỗ trợ cho các cơ quan
trung ương đóng trên địa bàn: Luật NSNN qui định không được dùng ngân sách của
cấp này để chi nhiệm vụ của cấp khác, trừ trường hợp đặc biệt theo qui định của
Chính phủ. Tuy nhiên trong thực tế, hầu hết các địa phương còn phải hỗ trợ thêm
kinh phí cho các cơ quan trung ương ở địa phương (cơ quan tư pháp, công an,
quân đội…) để thực hiện nhiệm vụ chung trên địa bàn. Việc hỗ trợ không được qui
định cụ thể dẫn đến giữa các địa phương hỗ trợ cho đối tượng không thống nhất
và gây áp lực về ngân sách của địa phương, nhất là đối với những tỉnh còn phải
nhận hỗ trợ của ngân sách trung ương. Mặt khác khó khăn trong việc kiểm tra, kiểm
soát và kiến nghị của cơ quan thanh tra, kiểm toán trong công tác quản lý sử dụng
kinh phí này.
- Về bố trí và sử dụng dự phòng: Luật NSNN không quy
định các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, các đơn vị dự toán (trong
lĩnh vực giao thông, thủy lợi, y tế…) khi phân bổ, giao dự toán cho các đơn vị
trực thuộc được để lại dự phòng để đáp ứng thực hiện các nhiệm vụ phát sinh đột
xuất trong năm. Trong quá trình triển khai, do gặp khó khăn trong việc chủ động
thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến phòng, chống thiên tai, dịch bệnh một số bộ,
ngành và cơ quan khi giao dự toán đã lập quĩ dự phòng để phục vụ nhu cầu bất
thường trong năm. Mặt khác Luật NSNN chưa qui định chặt chẽ, cụ thể các khoản
được phép chi từ nguồn dự phòng, dẫn đến nhiều địa phương đã sử dụng dự phòng để
điều hành ngoài dự toán khoản chi “bất thường” mang tính chất mua sắm, chi hoạt
động thường xuyên.
4. Về cân đối ngân sách: Còn một số nguồn thu, nhiệm
vụ chi chưa được qui định cụ thể, phù hợp để phản ánh đầy đủ số thu và phản ánh
đúng số thực chi trong quyết toán NSNN.
- Đối với nguồn thu phí, lệ phí, Luật NSNN hiện hành
qui định là khoản thu của NSNN. Tuy nhiên trong thực tế việc triển khai thực hiện
còn hạn chế. Đối với các khoản thu lệ phí, các cơ quan hành chính nhà nước được
để lại một phần để bù đắp chi phí thu, phần còn lại mới nộp vào NSNN. Việc để lại
như vậy làm môt phần số thu phí bị để ngoài ngân sách đồng thời tỉ lệ để lại được
Bộ Tài chính quyết định chưa sát hoạt động của đơn vị nên có đơn vị không đủ
kinh phí để tổ chức thu, có đơn vị thừa nguồn dẫn đến dư kinh phí lớn hoặc sử dụng
sai mục đích; đối với các khoản thu phí hiện nay được phản ánh vào NSNN bằng
hình thức ghi thu, ghi chi nhưng nhiều đơn vị không thực hiện ghi thu, ghi chi
đầy đủ kịp thời qua NSNN, nhiều đơn vị không nộp Kho bạc nhà nước, để tọa chi tại
đơn vị, thoát ly việc kiểm soát chi của Kho bạc, nhiều đơn vị không sử dụng
biên lai thu do cơ quan tài chính phát hành… Tồn tại này đã diễn ra nhiều năm
nhưng chưa có biện pháp khắc phục.
- Việc qui định các khoản phải đưa vào cân đối NSNN,
các khoản quản lý qua NSNN chưa thống nhất như hiện nay nguồn thu xổ sổ kiến
thiết là nguồn thu địa phương được hưởng 100% nhưng không đưa vào cân đối trong
khi nguồn thu từ đất địa phương cũng được hưởng 100% đã được đưa vào cân đối.
- Về các khoản vay và cho vay lại của Chính phủ hiện
nay chưa đưa vào cân đối NSNN. Xét về trách nhiệm và nghĩa vụ trả nợ là khoản
vay của Chính phủ nên đưa vào cân đối ngân sách. Tuy nhiên nếu đưa vào cân đối
ngân sách sẽ có những điểm không phù hợp đối với đối tượng vay là các dự án có
khả năng thu hồi vốn (không thuộc đối tượng chi ngân sách vì ngân sách chỉ chi
cho các dự án không có khả năng thu hồi vốn); thực chất người sử dụng vốn vay
và trả nợ là doanh nghiệp nên không thể điều chỉnh bởi cơ chế quản lý NSNN. Đây
là vấn đề đặt ra cần phải sửa đổi bổ sung trong Luật NSNN để có căn cứ kiểm tra
kiểm toán các khoản vay về cho vay lại vì các khoản vay này tiềm ẩn khả năng ảnh
hưởng đến cân đối NSNN khi doanh nghiệp không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ và
Chính phủ trả nợ thay.
Bội chi ngân sách và cách tính hiện nay chưa phù hợp
với thông lệ quốc tế và chưa thể hiện được đúng bản chất của bội chi gây khó
khăn cho công tác kiểm tra, kiểm toán khi đánh giá tính bền vững của NSNN. Cụ
thể: Cách tính bội chi hiện nay cao hơn thông lệ quốc tế (phần phải trả nợ gốc)
do các khoản vay được thể hiện chi 2 lần (lần thứ nhất sử dụng nguồn vay để chi
cho các nhiệm vụ mục tiêu của NSNN, lần thứ hai bố trí chi ngân sách để trả nợ
gốc khi các khoản vay đến hạn) đồng thời phạm vi tính bội chi NSNN chưa được
qui định cụ thể nên hiện nay bội chi không phản ánh các khoản vay bằng trái phiếu
Chính phủ cho giáo dục, y tế, giao thông, thủy lợi và huy động vốn đầu tư cơ sở
hạ tầng của các địa phương theo khoản 3 điều 8 Luật NSNN…
- Luật NSNN cho phép được chuyển nguồn NSNN năm trước
sang năm sau sử dụng tiếp nhưng chưa qui định cụ thể những nội dung được phép
chuyển nguồn dẫn đến số chuyển nguồn hàng năm khá lớn và ngày càng có xu hướng
tăng. Việc thiếu qui định cụ thể đối với các nội dung chi được phép chuyển nguồn
dẫn đến việc kiểm tra, kiểm toán tính hợp lý, hợp pháp của các khoản chi chuyển
nguồn chỉ là kiểm tra thủ tục của các khoản chi chuyển nguồn chưa phân tích
đánh giá được việc quản lý, điều hành ngân sách.
4. Về ứng trước dự toán ngân sách năm sau: Luật NSNN
hiện hành chưa qui định những trường hợp cụ thể được ứng trước dự toán, mức ứng
trước dự toán, cách thức bố trí dự toán năm sau để thu hồi các khoản ứng trước
dẫn đến ứng trước dự toán ngày càng tăng cao, chậm được thu hồi, nhất là lĩnh vực
dầu tư xây dựng.
5. Về chuẩn mực định mức để lập dự toán và kiểm soát
chi
Luật NSNN hiện hành đã qui định cụ thể các cơ quan
được ban hành các chính sách về định mức phân bổ ngân sách, chế độ chi tiêu
ngân sách. Tuy nhiên, các bộ, ngành chức năng chậm ban hành hoặc sửa đổi các
tiêu chuẩn, định mức chi làm căn cứ lập dự toán và kiểm soát chi; các địa
phương còn ban hành nhiều khoản phí, lệ phí và các khoản đóng góp chưa hợp lý,
một số chế độ chi còn chưa ở mặt bằng chung, chênh lệch lớn giữa các địa
phương. Đây là khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng công tác kiểm toán khi đánh
giá việc tuân thủ pháp luật của các khoản chi.
6. Về công tác kế toán và quyết toán ngân sách nhà
nước
Luật NSNN giao cho Kho bạc Nhà nước kiểm soát chi và
tổ chức hạch toán kế toán NSNN đồng thời qui định cơ quan tài chính các cấp thẩm
định quyết toán thu, chi của cơ quan cùng cấp và quyết toán ngân sách cấp dưới,
tổng hợp lập quyết toán ngân sách của cấp mình trình Chính phủ hoặc UBND các cấp.
Tuy nhiên hiện nay Kho bạc Nhà nước các cấp chỉ tổng hợp báo cáo số thu, chi do
cấp mình trực tiếp kiểm soát, trong khi cơ quan tài chính các cấp phải tổng hợp,
báo cáo toàn bộ các khoản thu, chi của ngân sách cấp mình (bao gồm cả ngân sách
cấp dưới) do đó hệ thống mẫu biểu, số liệu tổng hợp trong báo cáo của hai cơ
quan chưa đồng nhất về chỉ tiêu, nội dung để có thể so sánh, đối chiếu một cách
nhanh chóng, dễ dàng, thuận lợi nhất là số liệu về chi đầu tư, các khoản chi bằng
lệnh chi tiền, các khoản bổ sung từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới. Đây là khó
khăn trong công tác kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN các cấp khi phải đối chiếu
số liệu để xác định tính chính xác của quyết toán thu, chi theo từng cấp ngân
sách và Báo cáo quyết toán NSNN.
Thời gian chỉnh lý quyết toán hiện nay còn dài. Các
nội dung công việc được thực hiện trong thời gian chỉnh lý quyết toán chưa được
cụ thể trong Luật nên nhiều nhiệm vụ được kéo dài trong thời gian gian chỉnh lý
quyết toán.
Những
tồn tại bất cập nêu trên đã ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện kiểm toán NSNN
và hiệu quả của công tác kiểm toán. Để nâng cao chất lượng kiểm toán NSNN, nâng
cao hiệu quả hiệu lực của kết quả kiểm toán ngân sách nhà nước, đề nghị bổ
sung, sửa đổi một số nội dung, qui định của Luật NSNN như sau:
1. Bổ sung thẩm quyền, trách nhiệm của Kiểm toán Nhà
nước đối với quá trình ngân sách trong Luật NSNN.
Bổ sung thẩm quyền, trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước
trong công tác lập dự toán và quyết toán NSNN, tham gia xây dựng, thẩm tra các
dự án luật, pháp lệnh về tài chính ngân sách;
Bổ sung việc chỉ đạo của Chính phủ trong việc thực
hiện kết luận, kiến nghị của các cơ quan thanh tra, cơ quan Kiểm toán Nhà nước
và qui định rõ trách nhiệm của các ngành các cấp, các cơ quan đơn vị trong việc
tổ chức thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán cũng như chế tài đối với các
đơn vị không thực hiện nghiêm túc kết luận, kiến nghị của các cơ quan thanh tra
và cơ quan Kiểm toán nhà nước.
Bổ sung qui định thời hạn hoàn thành báo cáo quyết
toán ngân sách và việc thời hạn gửi dự toán NSNN, báo cáo quyết toán NSNN của
các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương cho Kiểm toán Nhà nước
để cơ quan này có đủ thời gian xem xét, trình ý kiến của mình về dự toán NSNN
cho Quốc hội và kết thúc kiểm toán, phát hành Báo cáo kiểm toán trước khi HĐND
và Quốc hội phê chuẩn quyết toán NSNN.
2. Đối với việc lập, phân bổ, giao dự toán
- Qui định sớm hơn về thời gian Chính phủ quyết định
lập kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán NSNN năm sau và thời gian Bộ
Tài chính hướng dẫn, thông báo số kiểm tra để các bộ ngành địa phương có thời
gian hướng dẫn các đơn vị cấp dưới lập dự toán và thời gian để tổng hợp dự toán
của bộ ngành địa phương mình. Qui định rõ các cơ quan tham gia thẩm định dự
toán ngân sách (Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Kiểm toán Nhà nước..) được
gửi tài liệu dự toán trước khi thảo luận dự toán NSNN.
- Qui định thống nhất một đầu mối tổng hợp dự toán
ngân sách, gắn kết việc lập dự toán chi thường xuyên và chi đầu tư; thống nhất
việc quản lý các chương trình mục tiêu quốc gia theo đó các bộ, ngành được giao
quản lý xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia trình Chính phủ; qui định rõ
trong Luật trách nhiệm báo cáo của bộ, ngành địa phương (về tình hình thực hiện
các năm trước; dự kiến các nhiệm vụ chi, kinh phí cho các nhiệm vụ…) của các
chương trình mục tiêu quốc gia và chi theo lĩnh vực cho các cơ quan có trách
nhiệm lập, tổng hợp dự toán để có đủ căn cứ, số liệu khi lập, thẩm định, kiểm
toán dự toán theo lĩnh vực.
- Qui định rõ giới hạn thời gian được điều chỉnh dự
toán ngân sách để các đơn vị sử dụng ngân sách chủ động trong việc thực hiện
nhiệm vụ và làm căn cứ chấn chỉnh, xử lý sai phạm khi kiểm tra, kiểm toán. Đồng
thời qui định rõ hành vi vi phạm trong quá trình lập, phân bổ và giao dự toán
NSNN cũng như chế tài xử lý các vi phạm.
3. Hoàn thiện việc phân cấp quản lý ngân sách theo
hướng giảm lồng ghép ngân sách hoặc qui định rõ rành cụ thể nhiệm vụ để hạn chế
những tồn tại. Đồng thời tăng cường tính chủ động của địa phương trong việc
phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi cho cấp dưới. Sửa đổi việc phân cấp nguồn
thu cho ngân sách xã theo hướng bỏ qui định ngân sách xã đều được hưởng tối thiểu
70% của 5 khoản thu (thu thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất; thuế nhà, đất;
thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh; thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ
hộ gia đình; lệ phí trước bạ nhà, đất)
4. Sửa đổi các qui định về quản lý nguồn thu phí, lệ
phí để bảo đảm phù hợp với thực tế quản lý trên cơ sở kiểm soát chặt chẽ các
khoản thu, chi từ nguồn thu này. Qui định rõ các khoản phải đưa vào cân đối
NSNN, các khoản quản lý qua NSNN để tổ chức thực hiện thống nhất, nhất là việc
đưa vào cân đối nguồn thu xổ số kiến thiết, nguồn thu từ đất, các khoản vay và
cho vay lại của Chính phủ
5. Về bội chi ngân sách: Qui định rõ vay để tính bù
đắp bội chi là khoản chênh lệch giữa tổng số vay và số chi trả nợ gốc theo đúng
thông lệ quốc tế đồng thời đưa toàn bộ các khoản vay liên quan đến trách nhiệm
trả nợ của Nhà nước vào tính bội chi như vay bằng trái phiếu Chính phủ cho giáo
dục, y tế, giao thông, thủy lợi và huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng của các địa
phương theo khoản 3 điều 8 Luật NSNN…
6. Đối với các khoản chi chuyển nguồn: Qui định cụ
thể những nội dung được phép chuyển nguồn để hạn chế tình trạng chi chuyển nguồn
lớn như hiện nay.
7. Đối với khoản dự phòng ngân sách và chi hỗ trợ giữa
các cấp ngân sách:
Xem xét thêm qui định cấp ngân sách, cơ quan dự toán
được phép lập dự phòng để chủ động thực hiện các nhiệm vụ phát sinh đột xuất
trong năm. Trong đó cần phải qui định tỷ lệ trích lập dự phòng cho từng đối tượng
và nội dung chi cụ thể, tránh tình trạng điều hành ngoài dự toán và không thống
nhất giữa các đơn vị.
Bổ sung qui định cụ thể các trường hợp được sử dụng
ngân sách cấp này hỗ trợ cho các nhiệm vụ chi của cấp ngân sách khác phục vụ
các hoạt động quốc phòng an ninh, chính trị, xã hội.
8. Về ứng trước dự toán ngân sách năm sau: Hạn chế nếu
có thể thì chấm dứt việc tạm ứng ngân sách. Nếu còn để qui định này thì chỉ nên
qui định được ứng trước dự toán để phòng chống thiên tai, dịch bệnh.
9. Về việc ban hành chế độ, chính sách, tiêu chuẩn định
mức chi: thẩm quyền ban hành được phân cấp phù hợp tính thống nhất trong quản
lý vừa tính đến đặc thù ngành nghề, vùng miền, kịp thời sửa đổi, điều chỉnh, bổ
sung phù hợp với điều kiện thực tế.
10. Một số qui định về công tác kế toán và quyết
toán ngân sách nhà nước cần sửa đổi, bổ sung.
Xem xét giao nhiệm vụ cho KBNN vừa kiểm soát chi và
tổ chức hạch toán kế toán NSNN đồng thời thực hiện lập quyết toán NSNN. Trường
hợp vẫn qui định cơ quan tài chính tổng hợp quyết toán thì cần cải tiến hệ thống
mẫu biểu báo cáo của hai cơ quan tại từng cấp ngân sách để thống nhất về nội
dung, chỉ tiêu báo cáo và thực hiện so sánh đối chiếu được số liệu giữa hai cơ
quan.
Rút ngắn thời gian chỉnh lý quyết toán và qui định
rõ các nội dung công việc được thực hiện trong thời gian chỉnh lý quyết toán.
Qui định rõ việc điều chỉnh số liệu của Báo cáo quyết toán NSNN đối với các sai
sót, sai phạm liên quan đến số liệu phát hiện trong quá trình tổng hợp quyết
toán, kiểm tra, kiểm toán theo từng trường hợp (trong thời gian chỉnh lý quyết
toán, trước khi quyết toán được HĐND hoặc Quốc hội phê duyệt, sau khi quyết
toán được HĐND hoặc Quốc hội phê duyệt)
Trên đây là một số nội dung chủ yếu tham gia, đề xuất
về sửa đổi bổ sung Luật NSNN trên giác độ “Kiểm toán NSNN và các vấn đề cần qui
định trong Luật NSNN” nhằm tăng hiệu lực, hiệu quả hoạt động kiểm toán đối với
các cơ quan đơn vị quản lý sử dụng tiền và tài sản Nhà nước cũng như phục vụ
công tác thẩm định, kiểm tra, giám sát NSNN của Quốc hội.
Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước Lê Hoàng Quân