Chính phủ nhiều nước đã thực hiện
các gói giải pháp để ngăn chặn suy thoái kinh tế với tổng trị giá trên 10.000
tỉ USD, chiếm gần 20% GDP toàn cầu năm 2008; chỉ với riêng nước Mỹ đã có trên
200 ngân hàng lớn nhỏ bị phá sản…Trong bối đó, Việt Nam đã chủ động vượt qua
khó khăn, sớm ngăn chặn được đà suy giảm, từng bước bảo đảm ổn định và tạo môi
trường thuận lợi cho phát triển kinh tế- xã hội. Đồng thời, đây cũng
là năm có nhiều vất vả và đóng góp vào thành công chung của ngành ngân hàng
Việt Nam…
I/.
Linh hoạt chính sách giữ thăng bằng giữa các sức ép ngược chiều nhau…
Năm 2009, các ngân hàng Việt Nam phải
cùng lúc chịu đựng nhiều sức ép và các bài toán “nghiệm kép”hóc búa, mà trong đó lời giải cho một loạt vấn đề nhiều
khi đối chọi, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau gay gắt cả về tính chất,
cách thức và xu hướng, cũng như mức độ tác động của chúng.
1-
Trước hết, một mặt, vừa phải gia tăng cho vay tín dụng kích cầu đầu tư và
tiêu dùng, mặt khác, vừa phải đề phòng nguy cơ tái lạm phát cao, gia
tăng nợ khê đọng, khó đòi, dễ dẫn đến vỡ nợ và mất an toàn hệ thống.
2- Hơn nữa,
vừa phải tăng cường đáp ứng nhu cầu về ngoại hối nói riêng và nguồn vốn cho
doanh nghiệp nói chung trong bối cảnh suy giảm nguồn tiền huy động và nguồn thu
ngân sách trong nước, nguồn thu tài chính từ nước ngoài, nhất là thu từ xuất khẩu,
FDI; đồng thời, vừa phải chịu áp lực giữ vững nguồn dự trữ ngoại hối và những
giới hạn khó vượt qua về mức tăng lãi suất, cũng như hạn mức tín dụng trong nước;
3- Đặc biệt,
vừa phải thích ứng với các yêu cầu tự do hoá và cạnh tranh bình đẳng thị trường,
bảo đảm tính kịp thời và linh hoạt trong
phản ứng chính sách trước các biến động mau lẹ, bất lường của bối cảnh trong nước
và quốc tế, nhất là phải chịu áp lực cao về tăng điều chỉnh linh hoạt tỷ giá và
lãi suất; trong khi vừa phải tăng yêu cầu hỗ trợ và giám sát vĩ mô nghiêm ngặt
từ phía nhà nước, đảm bảo ổn định hoá môi trường đầu tư-kinh doanh và sự cân bằng
giữa các lợi ích và mục tiêu chính sách;
4- Trong khi đó, hoạt động chỉ đạo, điều hành của
NHNN vừa phải bảo đảm các yêu cầu hoạt động chuyên môn đặc thù của ngành, lại vừa
vừa phải tuân thủ những mục tiêu và cơ
chế vận hành chung, vĩ mô của Chính phủ…
Trong bối cảnh đó, hoạt động điều
hành của ngành ngân hàng Việt Nam
năm 2009 có những điểm nhấn nổi bật sau:
Thứ
nhất, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
thể chế pháp luật về ngân hàng phù hợp với chiến lược phát triển của ngành và
lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế, nhất là Luật Ngân hàng Nhà nước, Luật
Các tổ chức tín dụng, Luật Bảo hiểm tiền gửi và Luật Giám sát an toàn hoạt động
ngân hàng…
Thứ
hai, điều hành khá đồng bộ, hài hòa,
linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, nhất là kết hợp giữa điều hành tỷ giá
và lãi suất; kịp thời chỉ đạo các tổ chức tín dụng thực hiện chuyển dịch cơ cấu
tín dụng theo hướng ngày càng tập trung vốn cho sản xuất, xuất khẩu, phát triển
nông nghiệp, nông thôn, mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Trong các thời điểm khác nhau trong
năm 2009, NHNN đã linh hoạt điều chỉnh giảm và tăng các mức lãi suất chủ đạo, lãi suất tái cấp
vốn và lãi suất tái chiết khấu phù hợp mục tiêu điều tiết lượng vốn huy động và
cho vay tín dụng theo hướng nới lỏng một cách thận trọng.
Thứ ba, tăng cường phối hợp với các bộ, ngành để bảo đảm nhất quán
giữa các chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là giữa chính sách tiền tệ và chính
sách tài khóa. Nâng cao hiệu quả công tác thống kê, dự báo, phản ứng kịp thời
trước những diễn biến kinh tế, tiền tệ trong nước và quốc tế. Đồng thời, đẩy
mạnh công tác thông tin, tuyên truyền nhằm giảm thiểu và ngăn ngừa các tin đồn.
Thực tế cho thấy, chỉ bằng một tuyên bố kịp thời, ngắn gọn và rõ ràng của Thống
đốc NHNN Nguyễn Văn Giàu hôm
11/9/2009 về việc NHNN sẽ cấp phép cho
nhập khẩu vàng theo nhu cầu thị trường cũng có sức mạnh tức thì “cắt sốt”, làm
đảo chiều giá vàng trên toàn quốc…
Năm 2009, Việt Nam đã thực hiện được mục tiêu tổng
quát đề ra là ngăn chặn suy giảm kinh tế, giữ được ổn định kinh tế vĩ mô, các
cân đối tài chính- tiền tệ cơ bản được bảo đảm, vốn đầu tư toàn xã hội đạt cao,
tới 42,6% GDP.
Việt Nam đã vượt qua thời kỳ lạm
phát cao khá tốt, với mức lạm phát cả năm
được kiềm chế dưới 7%, trong đó nhiều
mặt hàng đang có sự giảm giá đáng kể; Dư nợ tín dụng và tổng phương tiện thanh
toán tăng trong phạm vi cho phép, nợ xấu thấp và tiền mặt trong thực tế ngày
càng giảm.
Theo số liệu của NHNN, tính đến thời
điểm cuối năm 2009, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống khoảng 2,46%, trong đó tỷ lệ nợ
xấu của Vietcombank là 3% so với thời điểm đầu năm là gần 4%, của Eximbank là
trên 2% so với mức 4,71% cuối năm 2008 và 6% thời điểm đầu năm 2009. Các ngân
hàng khác như ACB, Sacombank có tỷ lệ nợ xấu dưới 1%.
Đặc
biệt, tiếp tục giữ ổn định thị trường tiền tệ, giảm các chi phí vốn cho doanh
nghiệp và cung ứng kịp thời các nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu đầu tư phát
triển của đất nước.
II/.
Những bài toán mới cho năm 2010
Trong năm
2010 hoạt động của ngành ngân hàngViệt Nam
cần chú ý hơn đến các vấn đề sau:
2.1.
Đảm bảo an toàn vốn, kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tái cơ cấu
Năm 2010, khu vực ngân hàng Việt Nam
có thể gặp nhiều áp lực hơn về nhu cầu vốn hoạt động, tính thanh khoản, nợ tín
dụng, tiêu chuẩn vốn, dự phòng tài chính, yêu cầu sáp nhập, hợp nhất, mở rộng
mạng lưới…
Các ngân hàng của Việt Nam trong thời gian tới cần bảo đảm
thúc đẩy sự phát triển dựa trên năng suất, chất lượng và hiệu quả đáp ứng cả thị
trường trong nước và nước ngoài.
2.2.
Điều hành tỷ giá linh hoạt hơn
Thực
tế cho thấy, sự căng thẳng ngoại tệ trên thị trường tiền tệ trong nước thường tỷ
lệ thuận với độ chênh biệt cao và kéo dài của tỷ giá chính thức với tỷ giá trên
thị trường tự do trong những thời điểm tương ứng. Cần nhấn mạnh rằng, càng kéo
dài lâu hơn sự chênh biệt và mất cân bằng này thì càng tích tụ nhiều hơn những hệ quả tiêu cực cộng dồn từ các thiệt hại
do VND bị định giá cao và do “sốc tỷ giá” trong tương lai.
Vì
vậy, chính sách tỷ giá trong thời gian tới cần linh hoạt hơn để cố gắng thu hẹp
chênh lệch tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do, từ đó góp phần
cân bằng cung-cầu và giảm bớt các hoạt động găm giữ và đầu cơ ngoai tệ trong nền
kinh tế.
Sự
linh hoạt của chính sách tỷ giá còn được thể hiện ở sự linh hoạt trong lựa chọn
mục tiêu của chính sách tỷ giá. Không thể thoả mãn cùng lúc nhiều mục tiêu
trong cùng một thời điểm, nhưng cũng không thể kéo dài mãi một chính sách tỷ
giá chỉ phục vụ cho một mục tiêu nhất định. Chẳng hạn, mục tiêu giảm nghĩa vụ nợ
nhờ duy trì chính sách tỷ giá thấp, có thể là cần thiết trong thời điểm đến hạn
thanh toán nợ, nhưng nếu kéo dài quá lâu sẽ gây hại cho mục tiêu dài hạn hơn là
sự cân bằng cán cân thương mại và xuất khẩu.
Linh
hoạt tỷ giá còn bảo đảm phải có sự đồng bộ giữa tỷ giá với lãi suất và cả biên
độ tỷ giá, cũng như với các chính sách tài chính khác (theo nghĩa rộng)
2.3.
Ngăn chặn những cơn sốt và tình trạng
lũng đoạn trên thị trường tài chính-tiền tệ
Năm 2009 đã chứng kiến sự bùng phát các cơn sốt giá và
các động thái thăng trầm khác nhau đủ loại trên nhiều thị trường về nhà đất,
chứng khoán, vàng, USD... với nguyên
nhân chủ yếu chung là kẽ hở trong cơ chế quản lý thị trường, công tác thông
tin, yếu tố tâm lý và những tin đồn…
Để ngăn chặn các cơn sốt nóng lạnh tương
tự, cần đảm bảo hoàn thiện và tuân thủ các nguyên tắc quản lý kinh tế và cạnh
tranh thị trường. Đặc biệt, cần đảm bảo các biến động chính sách phải minh bạch
và có thể dự báo.
Đồng
thời, thể chế hoá các phát ngôn và cung cấp thông tin chính thức của các cơ
quan và đại diện nhà nước, các tổ chức kinh doanh có liên quan. Bên cạnh đó, cần
chủ động phát hiện và trừng phạt kịp thời, nghiêm khắc các cá nhân và tổ chức
tung tin đồn thất thiệt hoặc đưa tin kiểu “gây sốc” nhằm mục tiêu phá hoại
chính sách, đầu cơ và cạnh tranh không lành mạnh.
2.4. Tăng
cường sự phối hợp đồng bộ các giải pháp và hoạt động quản lý
Trong
thời gian tới, NHNN cần phối hợp với Bộ Công thương và các Bộ, ngành liên quan
thực hiện tốt việc chấm dứt hỗ trợ lãi suất ngắn hạn và tiếp tục hỗ trợ lãi
suất vay trung hạn, dài hạn hiệu quả.
Ngăn
chặn và xử lý tiêu cực trong thực hiện chính sách hỗ trợ của nhà nước (năm
2009, Thanh tra NHNN phát hiện gần 4.000 trường hợp vi phạm cho vay kích cầu
với tổng cộng 5.916 tỷ đồng).
Đồng
thời, tập trung cải cách thủ tục hành chính, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp và người dân đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Sử dụng có
hiệu quả và đúng mục đích dự trữ ngoại hối nhà nước, ổn định giá trị đồng tiền
VND, ổn định thị trường vàng, kiểm soát chặt chẽ nợ quá hạn, nhất là nợ xấu,
đảm bảo an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ.
Ngoài
ra, cần nâng cao chất lượng công tác tham mưu về chính sách phát triển kinh tế,
tăng cường sự phối hợp giữa cơ quan dự báo với giám sát để cảnh báo sớm rủi ro
và xử lý một cách hiệu quả những vấn đề mới phát sinh.
Hoàng Ngọc Anh Cương (Ngân hàng Nhà nước)
TS.Nguyễn
Minh Phong (Viện nghiên cứu phát triển
kinh tế-xã hội Hà Nội