Đó
là tiền đóng thuế của người dân các nước phát triển nhằm giúp chính phủ và nhân
dân các nước đang phát triển xoá đói giảm nghèo, cải thiện giáo dục, chăm sóc sức
khoẻ, an sinh xã hội, bảo vệ môi trường, khắc phục thiên tai, nâng cao năng lực
thể chế, cải cách hành chính, vvv. Như vậy, họ kỳ vọng phần đóng góp của mình đến
được với người dân nghèo khó của các nước nhận viện trơ, giúp nhân dân ở đây vượt
qua khó khăn, tạo được các tiến bộ về kinh tế-xã hội bền vững về lâu dài. Họ
đâu có biết rõ đồng tiền mà họ đóng góp từ công sức lao động của mình được sử dụng
như thế nào ở các nước nhận viện trợ. Nếu họ biết được thực trạng chắc họ sẽ
xót xa biết nhường nào. Bên cạnh một số lượng rất ít các chương trình dự án viện
trợ không hoàn lại thu được kết quả tốt như mong đợi, không ít dự án đạt hiệu
quả thấp và tạo ra tác động không lớn như kỳ vọng. Đối với Việt Nam, Luật ngân
sách nhà nước (2002) quy định tiền viện trợ là một bộ phận cấu thành của ngân
sách nhà nước. Lãng phí trong việc sử dụng tiền viện trợ là vi phạm Lụât ngân
sách.
Bài
này phân tích hiện tượng kém hiệu quả phổ biến ở các chương trình dự án viện trợ
không hoàn lại (sau đây gọi tắt là “dự án”), nguyên nhân sâu xa của tình trạng
này và thử đưa ra một “phác đồ điều trị” để cùng xem xét góp ý nhằm cải thiện
tình hình.
Các biểu hiện “lâm
sàng” của các dự án
Hội
chứng “con nuôi” xảy ra khá phổ biến ở hầu hết các
dự án. Gọi là “con nuôi” vì trên thực tế không ít các cơ quan tiếp nhận và thực
hiện dự án (sau đây gọi tắt là chủ dự án)
không coi dự án là “con đẻ”, không coi nó là “một phần tất yếu”, “hữu cơ” trong
trách nhiệm của họ mà đối xử với dự án theo kiểu “được chăng hay chớ”. Mối quan
tâm hàng đầu của họ (nếu có) là công việc của cơ quan đơn vị họ. Người lãnh đạo
hoặc quản lý dự án ít khi bị lãnh đạo cơ quan đơn vị họ nhắc nhở hoặc phê bình vì
dự án không đạt tiến độ như đã cam kết với nhà tài trợ. Thực tế cho thấy hầu như
không có chủ dự án nào đưa kế họach hoạt động của dự án vào trong kế hoạch công
tác của cơ quan, đơn vị mình. Nhà tài trợ thường yêu cầu chủ dự án bố trì người
có trọng trách lớn (ít nhất là vụ trưởng, thậm chí là thứ trưởng) với kỳ vọng là
ở trách nhiệm cao như vậy họ sẽ dễ dàng lồng ghép công việc của dự án vào công
việc của cơ quan, đơn vị - một trong những điều kiện cơ bản đảm bảo cho dự án
thành công và có tác động lâu dài. Thực tế không như vậy. Dự án thì cứ tồn tại,
cứ thực hiện, tiền cứ tiêu nhưng đóng góp được bao nhiêu cho công việc của
chính chủ dự án thì ít ai quan tâm. Hàng quý vẫn có báo cáo đều đặn, chủ yếu là
để đáp ứng yêu cầu của nhà tài trợ. Người đại diện của chủ dự án vẫn ký gửi đi
nhưng nó đọng lại gì trong đầu những người có trách nhiệm mới là điều cần bàn.
Hàng năm vẫn có kiểm toán độc lập đến làm viêc và lập báo cáo. Kiểm toán chủ yếu
tập trung vào các vấn đề tuân thủ các quy định liên quan đến quản lý tài chính,
ít khi và cũng không thể quan tâm đến hiệu quả chi tiêu, nghĩa là làm ra được
cái gì từ số tiền đã tiêu.
Ở
phần lớn dự án, việc thuê chuyên gia nước ngoài là cần thiết và khá tốn kém. Điều
đáng quan tâm ở đây không phải là chi phí mà là cách tiếp cận và thái độ đối với
việc sử dụng chuyên gia, tức là từ góc độ “con nuôi” hay “con đẻ”. Thường xảy
ra hai thái cực đáng tiếc trong các dự án. Phổ biến nhất là thái độ “không quan
tâm” (I don’t care) vì cho rằng tiền của nhà tài trợ, họ muốn sao thì chiều họ
cho vui vẻ. Kết quả là bỏ ra một số tiền rất lớn nhưng kết quả làm việc của
chuyên gia chỉ dừng lại trong báo cáo của họ, không đóng góp được gì đáng kể
cho công việc của cơ quan chủ dự án. Một thái cực khác cũng xảy ra là thái độ kỳ
thị đối với việc mời chuyên gia vì cho rằng chuyên gia cũng không giải quyết được
gì, chỉ tốn tiền và nên tiết kiệm dành cho các hoạt đông mà người Việt Nam có
thể hưởng thụ được như tập huấn, khảo sát, học tập nước ngoài, vvv. Thoạt nhìn
thì cách lập luận này có vẻ ổn nhưng xem kỹ thì thấy nó ẩn chứa bên trong sự
mâu thuẫn nội tại lớn. Nói cho cùng thì tại sao chúng ta cần dự án? Phải chăng
vì chúng ta cần kinh phí mà ngân sách hạn hẹp không đủ cung cấp? Hoàn toàn
không phải như vậy. Kinh phí thì thiếu nhiều và còn thiếu lâu. Cái mà chúng ta
cần ở dự án là cơ hội để tiếp cận với những kinh nghiệm hay, cách làm tốt (và
có thể cả những “vết xe đỗ” cần tránh), những ý tưởng, tri thức mới, những know
how, nghĩa là những “giá trị gia tăng” mà dự án giúp tạo ra, thường là qua những
chuyên gia nước ngoài thích hợp mà chúng ta phải chủ động tuyển chọn. Nếu làm tốt
vịêc này và sử dụng khéo thì số tiền chi cho chuyên gia trở nên rất nhỏ bé (mặc
dầu giá trị tuyệt đối có thể lớn) nếu so với lượng giá trị gia tăng mà họ giúp
tạo ra. Ở đâu coi dự án là con đẻ thì ở đó chuyên gia đươc trọng dụng vì họ
chính là “con gà đẻ trứng vàng” cho ông chủ dự án.
Có
điều kiện quan sát kỹ cách làm của quốc đảo Solomon mà tôi thấy chạnh lòng và ước
mong sao nước mình cũng trân trọng từng đồng viện trợ như họ. Nước này còn
nghèo hơn Việt Nam nhiều và còn phụ thuộc khá lớn vào viện trợ nước ngoài nhưng
họ thực sự quan tâm đến hiệu quả sử dụng tiền viện trợ. Một vài biểu hiện sau:
Dự án “Tăng cường năng lực chính quyền địa
phương” tổ
chức một hội thảo 4 ngày (từ 26-29/1/2010) với đại diện của tất cả 9 tỉnh hưởng
thụ dự án. Mọi người dự đầy đủ từ ngày thứ nhất đến hết ngày thứ 4 (không cắt bớt
một giờ nào), không ai bỏ về giữa chừng.
Không có phong bì. Dự án chỉ bố trí giải khát giữa giờ và cơm trưa tại
chỗ rất đơn giản cho mọi người. Hội trường không có một bông hoa nào, không
băng rôn, không có biển đề tên và chức vụ của đại biểu, chỉ có biển đề tên của
từng địa phương để đại biểu ngồi cho đúng chỗ. Bộ trưởng đích thân đến phát biểu
khai mạc và định hướng cho đại biểu thảo luận. Thứ trưởng
làm việc liên tục suốt 4 ngày với hội thảo, lặng lẽ, khiêm tốn ngồi nghe và ghi
chép, thỉnh thoảng mới phát biểu theo yêu cầu của đại biểu. Không có đại diện
nào của các nhà tài trợ trên bàn chủ toạ, chỉ có người của nước sở tại và cố vấn
trưởng (chỉ với tư cách giúp việc). Không có bất kỳ phát biểu nào của các nhà
tài trợ trong khi họ đóng góp một khoản tiền không nhỏ, trên 10 triệu đôla Mỹ.
Người dẫn chương trình của tất cả 8 phiên làm việc là các vụ trưởng liên quan của
Bộ chính quyền địa phương và xây dựng thể
chế, chuyên gia của dự án ở từng tỉnh chỉ làm vai trò thư ký ghi chép nội
dung thảo luận. Tôi hết sức ngỡ ngàng một cách thú vị khi họ đưa ra công thức
phân bổ vốn đầu tư cho các địa phương, điều mà tôi chưa gặp trong đời, còn ở nước
ta thì chưa bao giờ nghe thấy, đó là công thức: 16-64-20. Nghĩa là 16% tổng vốn
phân bổ đều cho tất cả 9 tỉnh; 64% tổng vốn thì phân bổ theo dân số; còn lại
20% tổng vốn thì phân theo kết quả hoạt động năm 2009 căn cứ theo kết quả đánh
giá hoạt động hàng năm (annual performance assessment -APA). APA dựa trên một bộ
tiêu chí gồm 10 chỉ tiêu để đo lường cách thức và hiệu quả sử dụng vốn đã phân
bổ năm trước. APA do chuyên gia của dự án thuê làm, sau đó Bộ phê chuẩn làm căn
cứ để phân bổ phần vốn 20% nói trên. Mới phát triển ở trình độ thấp mà họ đã
nghĩ đến việc phải gắn chặt đồng vốn đầu tư của nhà nước vào hiệu quả hoạt động
của chính quyền địa phương. Vậy đấy. Họ coi công việc của dự án là công việc của
chính quyền. Thành quả của dự án giúp cơ quan nhà nước trực tiếp giải quyết
công việc quản lý nhà nước của mình. Dự án thực sự là “con đẻ” chứ không phải
là “con nuôi” như đề cập ở trên. Họ cũng đang dự kiến tổ chức đoàn đi nghiên cứu
khảo sát ở Việt Nam, Căm Pu Chia về các vấn đề phân cấp nhưng bằng tiền của
chính phủ họ, không dùng tiền dự án. Tôi cứ mơ ước: bao giờ ta được như vậy!
Hội
chứng thiếu quan tâm đến kết quả dự án.
Dự
án nào cũng được xây dựng và rà soát rất công phu trước khi Thủ tướng Chính phủ
phê chuẩn nhằm làm rõ kết quả chính mà dự án cần đạt. Nghị định 131 là một bước
tiến lớn theo hướng quan tâm đến kết quả dự án và phân cấp thẩm quyền cho các bộ/ngành
địa phương trong việc xác định ưu tiên mà dự án cần giải quyết. Đó là trên văn
kiện. Thực tế thì hoàn toàn khác. Người ta không mấy quan tâm đến việc liệu những
kết quả mà Thủ tướng đã có văn bản phê duyệt có đạt được hay không và làm thế
nào để đạt được. Tư duy thường trực ở hầu hết cán bộ chủ chốt và nhân viên dự
án là hoạt động, hoạt động và hoạt động. Ai cũng biết rõ là hoạt động chỉ là việc
cần làm, chứ không phải là kết quả cần đạt. Ai cũng biết rõ là hoạt động dự án
như hội thảo, tập huấn, khảo sát, điều tra, vvv không nhất thiết tạo được sự tiến
bộ hay thay đổi cần có (kết quả) nếu chúng không được thiết kế và thực hiện
theo hướng làm ra kết quả. Ví dụ: đi nghiên cứu khảo sát nước ngoài thì thường
chọn các nước Âu-Mỹ, Ôxtralia, New Zealand, nếu là châu Á thì chí ít cũng là
Hàn Quốc hay Singapore dù biết rõ là kinh nghiệm hiểu biết thu được (nếu có) chỉ
có thể để trên giá sách chứ khó áp dụng ở nước ta vì thể chế chính trị, môi trường
xã hội và văn hoá khác xa ở những nơi họ đến. Thậm chí có trường hợp ở mục “mục
tiêu và kết quả mong đợi của chuyến đi” nói một đằng nhưng bố trí nhân sự và chương
trình lại đi một hướng khác, không ăn nhập gì với nhau.
Hội
chứng cục bộ là một tồn tại khác khá phổ biến khi
vận hành dự án. Dự án nào cũng có những ưu tiên, phạm vi và đối tượng tác động
xác định của nó và việc khu trú trong một số đơn vị thụ hưởng liên quan trực tiếp
đến phạm vi tác động của dự án cũng là điều dễ hiểu. Điều đáng nói ở đây là ở
chỗ nhiều dự án thường chỉ tập trung vào một số ít đơn vị mà người chủ dự án có
quan hệ tốt, không mở rộng đến tất cả
các đối tượng đã xác định rõ trong văn kiện dự án, nhất là đối với cộng đồng. Trong
một số trường
hợp, hoạt động của các dự án tập trung ở những đơn vị “có thiện
chí thực hiện/hợp tác thực hiện” chứ không phải là những đơn vị có
mối liên hệ trực tiếp hoặc có nhiệm vụ thực hiện dự án Điều này làm
cho ảnh hưởng, tác động và tính bền vững của dự án bị hạn chế. Ngay cả các ấn
phẩm – thành quả của dự án cũng ít được phổ biến rộng rãi, ít khi chúng được đưa
lên mạng, do vậy người ngoài dự án rất khó tiếp cận để khai thác.
Còn
có thể kể ra đây một loạt các hội chứng - tồn tại khác mà chúng đều có cùng một
mẫu số chung là: hiệu quả đồng vốn của dự án thật èo uột. Thật xót xa.
Nguyên nhân
Nguyên
nhân có nhiều nhưng trong phạm vi hạn chế của bài này chỉ xin đề cập đến một số
nguyên nhân chính gồm: nhận thức sai lệch, dự án không xuất phát từ chính nhu cầu
bức bách của chủ dự án và cơ chế quản lý dự án chưa đủ chặt.
Nhận thức. Nguồn gốc hay căn nguyên của những
căn bệnh nêu trên là do quan niệm tiền viện trợ là “tiền chùa”. Một vị chức sắc
ở chùa đã phản ứng khi người ta ví von tiền nhà nước là tiền chùa. Ông cho rằng
nói như vậy là không đúng vì nhà chùa cũng rất trân trọng tiền công đức của các
phật tử tứ phương. Do quan niệm lệch lạc như vậy cho nên người ta cũng khá thoải
mái trong vịêc sử dụng tiền viện trợ chứ không phải tính toán chi ly cẩn thận
như tiền túi của mình.
Nhu cầu của chủ dự
án. Trên thực tế,
có không ít trường hợp chủ dự án rất ít tha thiết với dự án, họ quan niệm có
thì càng tốt, không có chẳng sao, thậm chí có càng thêm bận. Dự án là do Chính
phủ giao họ thực hiện mặc dầu họ đứng đơn trình Chính phủ phê duyệt dự án. Nhưng
đấy là trên giấy tờ. Trên thực tế thì lại khác. Làm tốt dự án thì có thể có lợi
chung cho cả nước, bản thân cơ quan đơn vị họ cũng không thụ hưởng gì nhiều. Họ
làm tốt cũng không được khen, làm không tốt cũng chẳng bị ai phê bình. Việc đề
bạt cất nhắc không vì thiếu quan tâm đến dự án mà bị ảnh hưởng. Thậm chí nếu tỏ
thái độ quan tâm có khi còn bị hiểu nhầm về động cơ. Do vậy mà dự án phải chịu
đối xử như con nuôi là chuyện dễ hiểu.
Cơ chế quản lý. Nguyên nhân quan trọng khác là
cơ chế. Luật ngân sách (2002) quy định tiền viện trợ là một bộ phận cấu thành của
ngân sách nhà nước và phải được quản lý chặt chẽ như tiền ngân sách. Tuy vậy
trên thực tế không có cơ chế chặt chẽ thực hiện quy định của pháp luật nêu
trên. Biểu hiện rõ nhất là các cơ quan quản lý của nước ta chủ yếu quan tâm đến
việc quản lý tiền đối ứng được cấp trong mỗi dự án còn việc quản lý tiền viện
trợ thì chủ yếu do các nhà tài trợ lo. Thậm chí báo cáo kiểm toán các dự án
cũng ít khi được các cơ quan hữu trách quan tâm đúng mức, còn giám đốc dự án
thì thường phó mặc việc này cho kế toán hoặc cùng lắm là cho quản đốc dự án.
Phác đồ điều trị
nào cho căn bệnh này?
1.
Tăng
cường cơ chế quản lý
Trước
hết cần đưa vào luật ngân sách sửa đổi (dự kiến trình Quốc hội xem xét thông
qua trong năm 2010) một điều luật quy định rõ tiền viện trợ là tiền ngân sách
và cụ thể hoá trong các nghị định liên quan của chính phủ về việc sử dụng loại
tiền này. Cụ thể là trong nghị định thay thế nghị định hiện nay hướng dẫn thực
hiện luật ngân sách mới và trong nghị định mới thay thế nghị định 131 (Bộ KHĐT
đang hoàn chỉnh trình Chính phủ xem xét ban hành). Những nội dung tối thiểu
sau đây cần đưa vào các văn bản dưới luật nêu trên (có thể chỉnh sửa cách diễn
đạt cho phù hợp):
-
Dự
án đề nghị viện trợ kỹ thuật không hoàn lại phải nhằm giải quyết những nhiệm vụ cụ thể được xác định trong danh mục nhiệm
vụ ưu tiên của cơ quan đơn vị phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế-xã
hội hàng năm và 5 năm của các cơ quan đơn vị đó. Nghĩa là, nếu có dự án thì đó
là con đẻ, chứ không phải con nuôi.
-
Kinh
phí dự án được duyệt sẽ được khấu trừ
vào kinh phí phân bổ hàng năm của cơ quan đơn vị đó. Với cách “đồng tiền
đi liền khúc ruột” này người ta phải đắn đo cân nhắc khi xin dự án và đã xin thì
ắt là cần lắm. Cũng dễ hiểu vì sao người ta bán hồ sơ dự thầu các công trình khá
đắt tiền (một hai trăm đôla Mỹ), chứ không phát miễn phí.
-
Kiểm toán nhà nước sẽ chịu trách
nhiệm kiểm toán toàn bộ kinh phí dự án nhận viện trợ (không chỉ có phần vối đối ứng) như
là một bộ phận của ngân sách nhà nước song song với kiểm toán độc lập do nhà
tài trợ thực hiện theo quy định riêng của họ. Làm như vậy, tối thiểu cũng để chứng
minh rằng ta coi tiền viện trợ là tiền ruột, chứ không phải là tiền chùa, và phù
hợp với quy định của pháp luật tiền viện trợ là tiền ngân sách. Đó là chưa nói
đến uy tín và trình độ nghiệp vụ của Kiểm toán Nhà nước đã được khẳng định qua
thực tế những năm gần đây.
2.
Tăng
cường tuyên truyền phổ biến để nâng cao nhận thức và giám sát của cộng đồng các
nội dung tối thiểu sau đây:
a.
Trên
công văn giấy tờ của dự án nhận viện trợ nếu có thể thì nên có dòng chữ “Dự án này do người đóng thuế nước A…hỗ trợ”
giống như cách mà các dự án do USAID hỗ trợ đang áp dụng “From the American people”
b.
Quy
định tất cả các dự án nhận viện trợ đều phải nộp báo cáo hàng năm với nội dung chỉ
một hai dòng để đăng trên cổng thông tin điện tử của Chính phủ: “năm 201…dự án A…của cơ quan A…sử dụng hết
…USD và mang lại kết quả chính như sau:….”.