Giới thiệu về Chuẩn mực Giảm
giá trị của tài sản
Tài sản của đơn vị được ghi nhận theo giá mua của
nghiệp vụ tại thời điểm mua. Sau đó, qua thời gian đơn vị tiến hành đánh giá
lại tài sản để phản ánh giá trị hợp lý của nó trên Bảng cân đối kế toán. Nếu
tài sản có sự giảm giá trị, khi đó sẽ phát sinh chi phí giảm giá trị của tài
sản và giá trị ghi sổ sẽ được ghi giảm xuống bằng với giá trị có thể thu hồi
của tài sản. Tuy nhiên, câu hỏi khi nào và như thế nào áp dụng phương pháp kiểm
tra giảm giá trị của tài sản chỉ có thể được giải đáp khi áp dụng Chuẩn mực Kế
toán Quốc tế số 36 (IAS 36) “Giảm giá trị
của tài sản”. IAS 36 là một trong các Chuẩn mực lập Báo cáo tài chính quốc
tế (IFRS) và được sửa đổi, cập nhật hàng năm. Nhưng IAS 36 được biết và được sử
dụng nhiều hơn ở nhiều quốc gia từ 1/1/2005.
Mục đích và phạm vi của chuẩn
mực
Chuẩn mực này áp dụng đối với tài sản là đất đai, nhà
cửa, máy móc thiết bị, tài sản cố định vô hình, lợi thế thương mại, đầu tư vào
công ty con, công ty liên kết, công ty liên doanh. Nó có mục tiêu là đảm bảo
tài sản được ghi nhận không cao hơn giá trị có thể thu hồi của tài sản.
Dấu hiệu giảm giá của trị tài sản
Chuẩn mực quy định các dấu hiệu bên ngoài và bên trong
doanh nghiệp. Cụ thể, dấu hiệu bên ngoài như sự sụt giảm quan trọng giá thị
trường của tài sản, sự thay đổi đáng kể ảnh hưởng không tốt cho đơn vị trong môi
trường công nghệ, thị trường, kinh tế và luật pháp; tăng tỷ lệ lãi suất hoặc tỷ
lệ hoàn vốn đầu tư của thị trường, giá trị ghi sổ của tài sản thuần cao hơn vốn
thị trường. Dấu hiệu bên trong như sự hỏng hóc và lỗi thời của tài sản, sự thay
đổi đáng kể ảnh hưởng không tốt đến đơn vị như tài sản không cần dùng, hoạt
động kinh tế của tài sản đã và đang trở nên tồi tệ. Khi có dấu hiệu giảm giá
trị tài sản, đơn vị tiến hành kiểm tra việc giảm giá trị tài sản, ngược lại,
không yêu cầu đơn vị thực hiện kiểm tra giảm giá trị tài sản.
Xác định giá trị có thể thu
hồi của tài sản
Phương pháp giá trị hợp lý trừ chi phí bán tài sản
(gọi tắt là giá trị hợp lý): xác định giá trị hợp lý của tài sản căn cứ vào hợp
đồng kinh tế, giá cả thị trường hiện tại, giá của những tài sản tương đương ...
Giá trị hợp lý được hiểu là giá trị có thể thu được từ việc bán tài sản trên cơ
sở trao đổi ngang giá giữa các bên trừ đi chi phí bán tài sản đó.
Phương pháp giá trị sử dụng để xác định giá trị sử
dụng của tài sản, đơn vị cần ước tính luồng tiền tương lai từ việc sử dụng tài
sản đó, xác định sự thay đổi có thể có về giá trị và thời gian của luồng tiền
trong tương lai, giá trị thời gian của tiền và các nhân tố khác. Giá trị sử
dụng được hiểu là giá trị hiện tại của luồng tiền tương lai ước tính từ việc sử
dụng tài sản hay đơn vị tạo tiền.
Nếu giá trị hợp lý hoặc giá trị sử dụng cao hơn giá
trị ghi sổ, thì không cần tính giá trị còn lại và khi đó tài sản không bị giảm
giá trị. Nếu giá trị hợp lý không xác định được, đơn vị tiến hành xác định giá
trị sử dụng của tài sản. Đối với tài sản chờ thanh lý, giá trị có thể thu hồi
là giá trị hợp lý trừ đi chi phí bán tài sản đó.
Dự đoán luồng tiền cần dựa trên các giả định hợp lý, nguồn
ngân sách gần đây nhất và không bao gồm luồng tiền phát sinh từ tái cơ cấu
doanh nghiệp hoặc cải thiện hoạt động của tài sản. Thời kỳ dự đoán thường không
quá 5 năm; ước tính dự đoán luồng tiền ngoài thời kỳ dự đoán được ngoại suy dựa
trên tỷ lệ tăng trưởng đều đặn hoặc giảm dần qua các năm tiếp theo.
Tỷ lệ chiết khấu và ghi nhận
chi phí giảm giá trị của tài sản
Trong việc xác định giá trị sử dụng, tỷ lệ chiết khấu
được sử dụng là tỷ lệ trước thuế mà nó phản ánh sự đánh giá về giá trị thời
gian của tiền và rủi ro cụ thể liên quan đến tài sản hay nhóm tài sản.
Chi phí giảm giá trị của tài sản được ghi nhận trên
Báo cáo kết quả kinh doanh khi giá trị thu hồi của tài sản thấp hơn giá trị ghi
sổ.
Đơn vị tạo tiền (CGU)
Trên thực tế, luồng tiền được tạo ra không phải từ
từng tài sản riêng biệt mà nó được tại ra bởi một nhóm tài sản được sử dụng
trong đơn vị. Khi giá trị có thể thu hồi không xác định được cho từng tài sản
thì nó sẽ được xác định cho từng nhóm tài sản mà chúng cùng tạo ra luồng tiền.
Nhóm tài sản này gọi là đơn vị tạo tiền (CGU). Như vậy, đơn vị tạo tiền là nhóm
tài sản được xác định nhỏ nhất mà nó tạo ra luồng tiền vào độc lập với luồng
tiền vào từ tài sản khác hoặc nhóm các tài sản khác.
Giảm giá trị của lợi thế
thương mại
Lợi thế thương mại (LTTM) được kiểm tra giảm giá trị
hàng năm. Để kiểm tra giảm giá trị, LTTM được phân bổ cho CGU hay nhóm CGUs.
Mỗi CGU hay nhóm CGUs mà LTTM phân bổ sẽ phản ánh mức độ nhỏ nhất trong đơn vị
mà LTTM được kiểm soát cho mục đích quản trị nội bộ và không lớn hơn bộ phận
kinh doanh. Khi giá trị có thể thu hồi của CGU hay nhóm CGUs thấp hơn giá trị
ghi sổ, chi phí giảm giá trị được phân bổ để ghi giảm giá trị ghi sổ theo trình
tự (i) đầu tiên ghi giảm giá trị ghi sổ của LTTM phân bổ cho CGU; (ii) sau đó
ghi giảm giá trị ghi sổ của các tài sản trong nhóm CGU theo tỷ lệ % của tài sản
đó trong CGU.
Ghi đảo ngược chi phí giảm
giá trị của tài sản
Tại ngày lập Bảng cân đối kế toán, khi có dấu hiệu
rằng chi phí giảm giá trị tài sản bị giảm xuống, đơn vị phải tính toán lại giá
trị có thể thu hồi của tài sản. Trong trường hợp giá trị thu hồi của tài sản
cao hơn giá trị ghi sổ, khi đó giá trị ghi sổ sẽ được ghi tăng lên nhưng không
cao hơn nguyên giá của tài sản trước khi ghi nhận chi phí giảm giá trị của tài
sản. Khi đó, khoản ghi đảo ngược đó được ghi nhận như một khoản thu nhập trên
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh (Nợ TK Tài sản/Có TK Thu nhập “ghi đảo
ngược chi phí giảm giá trị của tài sản”). Tuy nhiên, nghiêm cấm việc ghi đảo
ngược chi phí giảm giá trị của LTTM trong mọi trường hợp.
Trình bày
Đơn vị phải trình bày cho từng nhóm tài sản như chi
phí giảm giá trị, ghi đảo ngược chi phí giảm giá trị, và trình bày trên Báo cáo
kết quả kinh doanh. Đơn vị phải trình bày theo theo bộ phận kinh doanh như theo
bộ phận chính yếu, chi phí giảm giá trị của tài sản, ghi đảo ngược chi phí giảm
giá trị. Chuẩn mực cũng quy định trình bày cụ thể trong trường hợp chi phí giảm
giá trị mang tính trọng yếu và không trọng yếu.
Sự ảo tưởng về giá trị thực
của tài sản trong các doanh nghiệp tại Việt Nam
Chuẩn mực giảm giá trị của tài sản càng trở nên quan
trọng và cần thiết hơn bao giờ hết, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng kinh
tế khi mà tồn tại các dấu hiệu cả bên trong và bên ngoài đơn vị về sự sụt giảm
giá trị của tài sản. Chính vì vậy, các đơn vị phải tiến hành xác định giá trị
có thể thu hồi của tài sản để bảo đảm rằng tài sản được ghi nhận không cao hơn
giá trị có thể thu hồi.
Thấy được sự cần thiết trong việc áp dụng IFRS trong
đó có IAS 36, rất nhiều quốc gia đã sớm áp dụng đầy đủ IFRS bắt đầu từ 1/1/2005
như Úc, Hồng Kông, các nước Châu Âu … Một số nước áp dụng muộn hơn như Malaysia
từ 1/1/2006, Trung Quốc từ 1/1/2007. Rất nhiều nghiên cứu về giảm giá trị của
tài sản chỉ ra rằng mức độ tuân thủ tương đối thấp và chất lượng trình bày rất
kém tại các nước như Malaysia, Singapore, Anh, Úc, Hông Kông và các nước Châu
Âu.
Tại Việt Nam, Bộ Tài chính rất tích cực trong việc ban
hành khung pháp lý về kế toán và kiểm toán để phù hợp với thông lệ phổ biến của
kế toán và kiểm toán trên thế giới, trong đó có Chuẩn mực Kế toán Việt Nam.
Cũng có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng
trong việc biên soạn mới các Chuẩn mực kế toán Việt Nam, trong đó có Chuẩn
mực kế toán số 36 (VAS 36) “Giảm giá trị
của tài sản”.
Khi chưa có chuẩn mực hướng dẫn thực hiện giảm giá trị
tài sản, trong khi đó các chuẩn mực hiện tại như Chuẩn mực về tài sản cố định
hữu hình, tài sản cố định vô hình hoàn toàn không đề cập về vấn đề này. Hơn
nữa, phạm vi điều tiết của chuẩn mực “Giảm
giá trị tài sản” lại có sức lan tỏa rất rộng như đất đai, nhà cửa, trang
thiết bị … mà những tài sản này lại chiếm tỷ trọng lớn trên tổng tài sản, đặc
biệt là ở các Tổng Công ty Nhà nước.
Ngoài việc tài sản được ghi nhận theo nguyên giá và
khấu hao lũy kế theo quy định hiện hành, giả sử rằng tài sản chỉ bị giảm giá
trị 1% thì tình hình tài chính và kết quả kinh doanh hoàn toàn khác và câu
chuyện của các nhà đầu tư cũng sẽ hoàn toàn khác. Phải chăng việc xác định giá
trị thực của tài sản chỉ là ảo tưởng hão
huyền trong điều kiện Việt Nam hiện nay. Điều này đang là vấn đề quan tâm
và lo lắng không chỉ của cơ quan Nhà nước, nhà hoạch định chính sách, người sử
dụng BCTC mà ngay cả đối với các kiểm toán viên khi đưa ra ý kiến của mình.
Trần Mạnh Dũng MBA, CPA
Đại học Macquarie, Australia
Danh mục tài liệu tham khảo
Carlin, T. M. and N. Finch (2008). Goodwill Impairment
Testing Under IFRS-A False Impossible Shore?
Carlin, T. M., N. Finch, et al. (2007). "Are All
Audits Born Equal?" Journal of Applied Research in Accounting and
Finance 2(1): 21-32.
E&Y (2008). International GAAP 2008, Generally
Accounting Practice under International Financial Reporting Standards, John
Wiley and Sons.
F.Moliterno, S. (1993). The Accounting Profession
in Hong Kong, American Institute of Certified Public Accountants.
FRC, (2008), Review of Goodwill Impairment Disclosure.
Financial Reporting Council - UK.
Hoogendoorn, M. (2006). "International Accounting
Regulation and IFRS Implementation in Europe and Beyond - Experiences with
First-time Adoption in Europe." Accounting in Europe 3.
Lonergan, W., (2007), "AIFRS - A Practitioner's
Viewpoint", The Journal of Applied
Research in Accounting and Finance, vol. 2, iss. 1, pp. 9-19.