Việc gia nhập WTO đã mang đến cho Trung Quốc cả những xung đột,
mâu thuẫn, áp lực cạnh tranh và động lực phát triển trong môi trường và tình
hình mới. Trước bối cảnh đó, ngành kiểm toán của Trung Quốc cũng phải đối mặt với
nhiều rủi ro mới. Chính vì vậy, ngành kiểm toán của Trung Quốc nói chung và Kiểm
toán Nhà nước Trung Quốc (CNAO) nói riêng buộc phải đề ra các biện pháp ứng phó
để giảm thiểu rủi ro nhằm tiếp tục đóng vai trò tích cực trong việc giữ vững định
hướng kinh tế thị trường theo các nguyên tắc của WTO đồng thời đảm bảo chức
năng giám sát nền kinh tế xã hội chủ nghĩa của Trung Quốc.
Là một nước có rất nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc và
cũng đang đứng trước nhiều thách thức của quá trình thực hiện các cam kết với
WTO, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam cần nghiên cứu những bài học kinh nghiệm của
Trung Quốc để có thể đưa ra được các định hướng chiến lược và giải pháp tổ chức
thực hiện để vừa thực thi tốt nhiệm vụ của mình theo Luật Kiểm toán Nhà nước, vừa
góp phần vào việc thực hiện tốt các cam kết với WTO. Trong phạm vi hẹp, bài viết
chỉ đề cập đến một số rủi ro mà ngành kiểm toán Trung Quốc phải đối mặt khi
Trung Quốc gia nhập WTO và các biện pháp ứng phó chủ yếu.
1. Một số rủi ro kiểm
toán nảy sinh khi Trung Quốc gia nhập WTO
Việc gia nhập WTO của Trung Quốc cùng với sự phát triển của
khoa học công nghệ đã thúc đẩy hơn nữa sự phát triển kinh tế của Trung Quốc,
mang đến nhiều thay đổi cho môi trường kinh tế nói chung và môi trường kiểm
toán nói riêng. Những thay đổi này bao hàm cả cơ hội phát triển lẫn rủi ro cho
ngành kiểm toán của Trung Quốc.
a. Rủi ro mang tính quốc tế đối với hoạt động kiểm toán
WTO làm tăng tốc độ quốc tế hóa hoạt động kiểm toán của Trung
Quốc, làm tăng tiến trình hội nhập của thị trường kiểm toán của Trung Quốc. Các
công ty kế toán, kiểm toán của Trung Quốc giờ đây không chỉ thực hiện các hợp đồng
kiểm toán trong nước mà còn có cơ hội cộng tác với các kế toán viên Trung Quốc
đang làm việc ở nước ngoài để thực hiện các dịch vụ kiểm toán, hoặc ký thỏa thuận,
hợp đồng kinh doanh quốc tế với các công ty kế toán, công ty liên doanh nước
ngoài…
Tuy nhiên, do sự khác biệt rất lớn về trình độ phát triển
kinh tế giữa các quốc gia (giữa Trung Quốc
với các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển) nên môi trường
kiểm toán, thực tiễn kiểm toán, thông lệ và chuẩn mực kiểm toán cũng như kiến
thức và kinh nghiệm kiểm toán giữa các quốc gia và giữa các kiểm toán viên có sự
khác biệt rõ nét. Đây chính là rủi ro mang tính quốc tế đối với hoạt động kiểm
toán.
b. Rủi ro khi kiểm toán các doanh nghiệp “online”
Mạng lưới công nghệ thông tin đã giúp sự phát triển của các
hoạt động kinh tế ngày càng trở nên đa dạng, phong phú. Với các thành tựu của
khoa học công nghệ, không gian hoạt động kinh tế giờ đã trở thành “không gian
truyền thông” và doanh nghiệp hoạt động trong “không gian truyền thông” được gọi
là “doanh nghiệp trực tuyến” (doanh nghiệp
“online”). “Doanh nghiệp trực tuyến” có đặc trưng cơ bản là “ảo”, vô hình,
vì vậy kiểm toán viên khó có thể xác định chính xác phạm vi và quy mô hoạt động
của doanh nghiệp này; việc kiểm tra các dữ liệu kế toán và thu thập bằng chứng
kiểm toán cũng trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Đây chính là rủi ro về đối tượng
kiểm toán.
c. Rủi ro về những thay đổi của vật mang tin
Sự phát triển của công nghệ thông tin đã hiện thực hóa việc
giao dịch không thông qua giấy tờ. Vật mang tin đã chuyển từ giấy sang đĩa,
băng ghi âm và các phương tiện từ tính khác. Việc lưu trữ thông tin từ tính là
vô hình, chỉ nhờ sự hỗ trợ của máy tính, bằng ngôn ngữ tin học mới có thể hiểu
được thông tin hàm chứa nội dung gì. Việc sử dụng các phương tiện từ tính cũng
khó kiểm soát ví dụ việc ký nhận, đóng dấu điện tử… rất khó chứng thực. Điều
này cũng mang đến những rủi ro kiểm toán mới.
d. Tài sản vô hình - rủi ro kiểm toán
WTO đã làm tăng quy mô và phạm vi kiểm toán tài sản vô hình.
Sự bùng nổ và phát triển của công nghệ thông tin đã làm cho giá trị vô hình của
nhiều tài sản tăng lên hoặc giảm đi một cách đáng kể. Tính hiệu quả của các
thông tin mới ngày càng tăng sẽ làm giảm giá trị của các thông tin, kiến thức
cũ, lỗi thời do lợi ích kinh tế của tài sản vô hình gắn chặt với sự phát triển
của môi trường kinh tế, xã hội. Do đó, giá trị của tài sản vô hình cùng với tính
thiếu chắc chắn của nó trong nền kinh tế hiện đại sẽ khiến kiểm toán tài sản vô
hình hàm chứa rủi ro lớn hơn.
e. Rủi ro kiểm toán quản lý
WTO sẽ giúp cải thiện kiểm toán hoạt động quản lý, vì khi thực
hiện nguyên tắc minh bạch của WTO, các hoạt động quản lý của doanh nghiệp sẽ được
thể hiện toàn diện và rõ ràng hơn. Gia nhập WTO, các doanh nghiệp trong nước buộc
phải đứng trước áp lực cạnh tranh trên chính thị trường trong nước và phải
thích ứng với sự biến động của thị trường. Thị trường thay đổi thì sách lược
kinh doanh của doanh nghiệp cũng sẽ thay đổi theo. Hoạt động quản lý của doanh
nghiệp đôi khi là những thử nghiệm của thị trường nên việc kiểm toán hoạt động
quản lý của doanh nghiệp sẽ trở nên khó khăn hơn. Đây chính là một trong những
rủi ro kiểm toán mới.
f. Rủi ro trong kiểm toán trách nhiệm xã hội
WTO thúc đẩy và đề cao trách
nhiệm xã hội. Một trong những nhiệm vụ mới của ngành kiểm toán, đặc biệt
là kiểm toán Nhà nước đó là kiểm toán trách nhiệm xã hội. Trách nhiệm xã hội được
thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau như: trách nhiệm chung của toàn xã hội trong
việc xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường, giảm khí thải, tăng lợi ích của người lao
động, hỗ trợ xây dựng các khu chung cư… Nếu như vậy sẽ khó có thể xác định tiêu
chí và phương pháp đo lường, đánh giá trách nhiệm xã hội một cách hợp lý; việc
thu thập bằng chứng để kiểm toán cũng không dễ dàng, thuận lợi. Đây chính là rủi
ro tiếp theo mà ngành kiểm toán phải đối mặt.
2. Biên pháp chủ yếu để
giảm thiểu các rủi ro của ngành kiểm toán Trung Quốc
Trước những rủi ro mới phát sinh khi gia nhập WTO, một những
biện pháp mấu chốt được đề xuất đó là ngành kiểm toán Trung Quốc phải cải tiến
thường xuyên phương pháp và công nghệ kiểm toán. Ngành kiểm toán cũng đưa ra một
số biện pháp giảm thiểu các rủi ro nói trên như sau:
Thứ nhất là thúc đẩy tốc độ quốc tế hóa hoạt động kiểm toán. Ngành kiểm toán Trung Quốc cần đổi mới
hoạt động và chất lượng kiểm toán của mình trên cơ sở tham khảo các chuẩn mực,
thông lệ kiểm toán quốc tế. Thông qua sự hợp tác liên quốc gia trong lĩnh vực
kiểm toán, Trung Quốc sẽ thúc đẩy hơn nữa tốc độ quốc tế hóa hoạt động kiểm
toán của mình. Ngành kiểm toán Trung Quốc cũng cần tăng cường công tác đào tạo
cho các kiểm toán viên các kiến thức và thông tin liên quan đến thực tiễn kiểm
toán trong môi trường quốc tế, học và sử dụng thành thạo các kỹ thuật kiểm toán
quốc tế hiện đại.
Thứ hai là xây dựng các quy trình và phương pháp kiểm toán mới.
Việc gia nhập
WTO đã đặt ngành kiểm toán Trung Quốc trước thách thức mở rộng đối tượng, nội
dung và phạm vi kiểm toán. Nội dung và phạm vi kiểm toán sẽ không dừng lại ở kiểm
toán hàng tồn kho, tài sản cố định và các tài sản hữu hình khác mà đã chuyển
sang kiểm toán nhiều loại tài sản vô hình mới; kiểm toán tài chính không chỉ mở
rộng sang kiểm toán hoạt động, mà sẽ chuyển sang kiểm toán hoạt động quản lý của
đơn vị và kiểm toán trách nhiệm xã hội. Đối tượng kiểm toán không chỉ dừng lại ở
các doanh nghiệp có trụ sở hữu hình mà đã mở rộng sang loại hình doanh nghiệp
“trực tuyến”, hoạt động trong “không gian truyền thông”. Trước thực tế đó,
ngành kiểm toán cần sớm xây dựng các quy trình, phương pháp và kỹ thuật kiểm
toán mới phù hợp với từng loại hình kiểm toán; đồng thời chuẩn hóa các quy
trình, phương pháp, kỹ thuật kiểm toán hiện có.
Thứ ba là áp dụng một cách toàn diện công nghệ thông tin hiện
đại. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế tri thức, nền kinh tế thông tin, hoạt động kế toán của
các đơn vị được kiểm toán được lập trình và hạch toán trên hệ thống máy vi
tính. Việc kiểm toán thông tin kế toán với tư cách là mục tiêu chính của hoạt động
kinh tế cần phải được áp dụng công nghệ thông tin hiện đại để đẩy nhanh quá
trình thu thập và xử lý thông tin nhằm nâng cao chất lượng kiểm toán. Khi kiểm
toán các doanh nghiệp “trực tuyến”, các kiểm toán viên cần khai thác triệt để
và hiệu quả các thông tin về đơn vị trên mạng nhằm giảm thiểu tối đa rủi ro kiểm
toán do thu thập thiếu thông tin và thông tin không chính xác. Tuy nhiên, cần
phải cẩn trọng để phân biệt thông tin “thật” và thông tin “ảo”.
Thứ tư là kiểm soát các rủi ro trong lĩnh vực kế toán và chuẩn
hóa hoạt động kế toán. Gia nhập WTO và hội nhập kinh tế quốc tế, độ tin cậy của thông tin kế toán
được coi như một chìa khóa cho sự thành công của hoạt động kiểm toán. Kiểm soát
rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ là một trong những
nhiệm vụ quan trọng của kế toán nhằm hỗ trợ cho việc thiết lập hệ thống thông
tin quản lý và kiểm soát rủi ro. Việc thiết lập hệ thống thông tin này yêu cầu doanh
nghiệp phải thay đổi mô hình kế toán truyền thống thiết lập mô hình “quản lý và
kiểm soát rủi ro”, thiết lập cơ chế báo động để quản lý rủi ro doanh nghiệp,
tăng cường các chức năng quản lý của kế toán, nghiên cứu xu hướng phát triển thị
trường, áp dụng các phương pháp cụ thể nhằm đảm bảo tính chất xác thực của
thông tin kế toán.
Thứ năm là cải thiện hơn nữa các quy định pháp lý về hoạt động
kiểm toán. Nền
kinh tế thị trường là nền kinh tế chịu sự chi phối của pháp luật. Sau khi gia
nhập WTO, các hoạt động kinh tế hợp pháp ở Trung Quốc sẽ càng được tăng cường. Trong
nền kinh tế thị trường, kiểm toán chỉ có thể tồn tại và phát triển khi vận động
trong môi trường pháp lý thích hợp. Do đó, sau khi gia nhập WTO, trước hết,
ngành kiểm toán cần phải tăng cường tính pháp lý của hoạt động kiểm toán; cần
thiết lập một hệ thống chuẩn mực và hướng dẫn kiểm toán mới để hoạt động kiểm
toán được chuẩn hóa và thể chế hóa. Thứ hai, các biện pháp chế tài đối với các
kế toán viên công chứng và các đơn vị kiểm toán có hành vi gian lận cần phải có
hiệu lực hơn nhằm nâng cao nhận thức về rủi ro và tính cẩn trọng cũng như đạo đức
nghề nghiệp của các kiểm toán viên. Thứ ba, việc từng bước phổ biến Luật Kiểm
toán Nhà nước, pháp luật và các quy định có liên quan đến hoạt động kiểm toán
là hết sức cần thiết. Khi các nhà đầu tư và công chúng đều biết sử dụng pháp luật
như một thứ vũ khí khi tham gia thị trường nhằm tránh những tồn thất thì sẽ tạo
lập được một hệ thống giám sát chung trong toàn xã hội.
Thứ sáu là tăng nhận thức của kiểm toán viên về rủi ro kiểm
toán. Nghề kiểm
toán là một nghề vốn chứa đựng nhiều rủi ro. Sau khi gia nhập WTO, quy mô và loại
hình rủi ro kiểm toán cũng tăng lên, yêu cầu kiểm toán viên cần phải nhận thức
đúng đắn hơn về rủi ro kiểm toán. Do đó, kiểm toán viên cần: (1) nghiên cứu một
cách hệ thống về rủi ro kiểm toán, nắm vững được phương pháp luận kiểm toán mới;
tập trung vào từng phát hiện kiểm toán để trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp
ngăn ngừa rủi ro một cách thích hợp. (2) Nhận thức khái niệm về kiểm toán và kiểm
soát một cách đầy đủ. Sau khi gia nhập WTO, các kiểm toán viên cần tập trung
vào khâu kiểm soát hoạt động kiểm toán; áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới nhằm
tăng cường kỹ năng kiểm toán các ngành công nghiệp công nghệ cao và thúc đẩy sự
tăng trưởng nhanh chóng của các ngành này. (3) Tạo dựng ý thức cạnh tranh và đổi
mới nhận thức. Gia nhập WTO, hội nhập kinh tế quốc tế càng khẳng định rõ vai
trò của khoa học công nghệ thông tin đối với sự phát triển kinh tế, vì vậy, đội
ngũ kiểm toán viên cần được trang bị các nhận thức về kinh tế tri thức; được đào
tạo, bồi dưỡng về khái niệm kinh tế theo hướng cạnh tranh; được trang bị khả
năng phản ứng nhanh, linh hoạt và tư duy sáng tạo trong cách thức lập kế hoạch
kiểm toán, thực hiện kiểm toán tại hiện trường và đưa ra ý kiến, khuyến nghị
phù hợp vì hiệu quả và sự phát triển của đơn vị được kiểm toán.
3. Một số bài học kinh
nghiệm và giải pháp cho Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
trong điều kiện Việt Nam
là thành viên của WTO
a. Hoàn thiện cơ sở pháp lý và các quy định về chuyên môn,
nghiệp vụ cho tổ chức và hoạt động của Kiểm toán Nhà nước
Về hoàn thiện cơ sở pháp lý, Kiểm toán Nhà nước Việt Nam cần chủ động nghiên cứu để đề xuất bổ sung vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ở thời điểm thích hợp một số điều khoản quy định
(như Luật Kiểm toán Nhà nước) về vị trí pháp lý, tính độc lập của cơ quan
Kiểm toán Nhà nước. Bên cạnh đó, cũng cần bổ sung vào Luật
Kiểm toán nhà nước một số chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Kiểm toán Nhà nước
như: bổ sung nhiệm vụ kiểm toán thuế, nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, nhiệm vụ kiểm toán nợ công...; quy định rõ giá
trị pháp lý của báo cáo kiểm toán và chế tài đối với các hành vi vi phạm Luật
Kiểm toán nhà nước.
Về quy định chuyên môn, nghiệp vụ, Kiểm toán Nhà nước cần sớm hoàn thiện hệ thống
chuẩn mực, quy trình kiểm toán và hệ thống mẫu biểu hồ sơ kiểm toán phù hợp với
thông lệ quốc tế và theo yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO,
nhằm ngày một nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước.
b. Đổi mới phương thức tổ chức hoạt động kiểm toán
Kiểm toán Nhà nước cần đa dạng hóa
phương thức tổ chức hoạt động kiểm toán theo hướng kết hợp nhiều loại hình kiểm
toán trong một cuộc kiểm toán; phát triển, tăng số lượng các cuộc kiểm toán
chuyên đề, kiểm toán điều tra theo yêu cầu quản lý vĩ mô của Chính phủ, Quốc
hội và các cơ quan chức năng của Nhà nước.
c. Đổi mới nội dung và phát triển các
loại hình kiểm toán
Kiểm toán Nhà nước cần phải thực hiện tốt các loại hình kiểm toán theo
quy định của Luật Kiểm toán Nhà nước, trọng điểm là kiểm
toán báo cáo tài chính và kiểm toán tuân thủ. Trên cơ sở đó, từng bước mở rộng
kiểm toán hoạt động, trước hết là trong lĩnh vực quản lý, sử dụng ngân sách, đầu
tư xây dựng và chương trình mục tiêu quốc gia. Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết, đặc biệt là nguồn
nhân lực để tiến hành kiểm toán trong môi trường ứng dụng công nghệ thông tin.
c. Phát triển nhân sự và công nghệ kiểm toán
Để tạo dựng được nguồn nhân lực
chất lượng cao, Kiểm toán Nhà nước cần phải có một hệ thống chính
sách đồng bộ, toàn diện từ tuyển dụng, thu hút nhân tài, đào tạo
và phát triển nghề nghiệp, văn hóa và đạo đức nghề nghiệp đến ưu
đãi, khen thưởng, kỷ luật. Trước tiên, Kiểm toán Nhà nước cần tổ chức
rà soát, đánh giá lại hệ thống tiêu chuẩn kiểm toán viên
nhà nước hiện hành so với yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện hội nhập
WTO, nhất là tiêu chuẩn về trình độ chuyên môn, hiểu biết pháp luật
và thông lệ quốc tế, cũng như kinh tế quốc tế. Các tiêu chuẩn đưa ra
cần cụ thể, có định lượng rõ ràng, dễ kiểm tra, đánh giá. Trên cơ sở
các tiêu chuẩn đó, tổ chức tuyển dụng và đào tạo, bồi dưỡng thi nâng ngạch
và bổ nhiệm giữ ngạch kiểm toán viên nhà nước theo đúng tiêu chuẩn quy định cho
từng ngạch, bậc kiểm toán viên.
Việc
phát triển công nghệ thông tin của Kiểm toán Nhà nước nhằm đáp ứng đầy đủ nhất
về công cụ, phương tiện tiên tiến, kỹ thuật hiện đại cho việc thực hiện một
cách hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán Nhà nước, đồng thời thúc đẩy sự
phát triển, hoàn thiện về hoạt động của Kiểm toán Nhà nước trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động. Mặt khác, đơn vị được kiểm toán cũng sử dụng nhiều
công nghệ thông tin ngày càng hiện đại phục vụ cho hoạt động, kỹ
thuật số hóa ngày càng phát triển với nhiều tiện ích được áp
dụng. Vì vậy, Kiểm toán Nhà nước cũng cần phải sẵn sàng các điều
kiện cần thiết cho việc kiểm toán trong môi trường công nghệ thông tin.
d.
Nâng cao chất lượng
và tăng cường kiểm soát chất lượng kiểm toán
Chất lượng kiểm toán được thể
hiện trước hết ở những sản phẩm của Kiểm toán Nhà nước, đó là các
báo cáo kiểm toán, các ý kiến tư vấn, tham gia của Kiểm toán Nhà nước
vào quá trình hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, thông tin
phục vụ cho công tác quản lý, điều hành kinh tế, tài chính - ngân
sách, tiền tệ. Kết quả của mỗi cuộc kiểm toán cần phải được xâu
chuỗi, tổng hợp để có những đánh giá toàn diện, sâu sắc về vấn đề
nào đó, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến cam kết WTO và hội
nhập kinh tế quốc tế. Muốn vậy, Kiểm toán Nhà nước cần phải có những
định hướng, mục tiêu kiểm toán dài hạn, trung hạn làm cơ sở cho xây
dựng kế hoạch kiểm toán dài hạn, trung hạn và từng năm. Đồng thời
phải có bộ phận chuyên trách về phân tích, tổng hợp kết quả kiểm
toán, am hiểu luật pháp và kinh tế vĩ mô.
Ths. Đặng Thị Hoàng Liên
Tài liệu tham khảo
- Vương Đình Huệ, “Nghiên cứu tác động của quá trình
thực hiện các cam kết thương mại khi Việt Nam là thành viên của WTO đối với
hoạt động của Kiểm toán Nhà nước”, Đề tài cấp bộ năm 2007.
- Yuan Jie Zhu. Competitive order of the
construction of [M]. Beijing: Peking University
Press, 2003. [3] Chen Zhengxing, Zhou Chun. Audit Cultural Studies
[M]. Beijing: China economic
Press, 2004.
- Xia Dong, Lin Zhen Jackson. China's audit
market competition conditions [J]. Accounting Research, 2003, (3).
- Zeng Yong. China's certified public
accountants audit the quality of [J]. Management Science Digest, 2004, (2).
- Zhou Hong, Zheng. Evaluation of the French
auditing profession management system [EB / OL]. China accounting Wang Xiao, 2004,
(1).
- Li Chuan-Jun, Qi defender and so on. U.S. audit
regulators Enlightenment [J]. Zhongzhou audit, 2003, (10).