. Giữa kỳ vọng của kiểm toán viên và Công ty
kiểm toán với kỳ vọng của những người sử dụng kết quả kiểm toán luôn tồn tại
một khoảng cách. Khoảng cách này nhỏ hay lớn tùy thuộc vào sự phát triển của
ngành kiểm toán và sự nhận thức của những người sử dụng kết quả kiểm toán của
từng quốc gia. Trong khuôn khổ bài viết này, các tác giả xin giới thiệu bản
chất của khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán và đặc biệt tập trung vào tổng hợp
các công trình nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán trên toàn thế giới.
1. Giới thiệu về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán
Báo cáo tài chính (BCTC) là hệ
thống báo cáo được lập theo chuẩn mực và chế độ tài chính kế toán hiện hành,
phản ánh các thông tin kinh tế tài chính tổng hợp của đơn vị. Trên thực tế,
luôn có khoảng cách giữa các nhà quản lý doanh nghiệp và những người sử dụng
BCTC liên quan đến tính đúng đắn và tin cậy của BCTC. Sự gắn kết giữa cổ đông
và các nhà tín dụng, và các nhà quản lý doanh nghiệp được thiết lập thông qua
BCTC mà các báo cáo này cần được kiểm toán để khẳng định độ tin cậy, tính trung
thực và hợp lý của các chỉ tiêu trên BCTC. Trong trường hợp này, hoạt động kiểm
toán giữ vai trò trung tâm, đem lại niềm tin cho những người sử dụng BCTC của
doanh nghiệp.
Chức năng cơ bản của kiểm toán
tài chính là xác minh tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên BCTC và
BCTC được những người sử dụng với nhiều mục đích khác nhau. Sự khác biệt của
việc sử dụng thông tin tài chính giữa những người sử dụng và các nhà quản lý
doanh nghiệp có sự mâu thuẫn, dẫn đến mâu thuẫn trong việc trình bày BCTC. Xã
hội yêu cầu kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải giải quyết mâu thuẫn này
để hướng đến lợi ích của những người sử dụng BCTC. Nhiều sự tranh luận xảy ra
về chất lượng và tính hữu ích của cuộc kiểm toán hay độ tin cậy của BCTC được
kiểm toán.
BCTC có độ tin cậy nên trình bày
các vấn đề (i) báo cáo này có phản ánh tình hình tài chính và kết quả kinh
doanh mà người đọc có thể tin cậy không?; (ii) báo cáo có đầy đủ, đúng đắn và
tin cậy về đơn vị được kiểm toán không? Tuy nhiên, những người sử dụng BCTC
chưa thể tin cậy vào chất lượng của BCTC mà đơn vị lập. Vậy thì những người
quan tâm có thể tin cậy vào các thông tin trên báo cáo đã được kiểm toán để đưa
ra các quyết định kinh tế đúng đắn hay không?
Tuy nhiên, do một số vụ bê bối
trên phạm vi quốc gia và quốc tế, độ tin cậy của kết quả kiểm toán đã trở nên
bị hoài nghi như qua các vụ bê bối kiểm toán liên quan đến sự phá sản của World
Com, Enron … Theo đó, sự hoài nghi và không tin tưởng vào hoạt động kiểm toán
đã xuất hiện trong nhận thức của những người sử dụng BCTC. Đã đến lúc hoạt động
kiểm toán cần thay đổi để lấy lại niềm tin từ phía công chúng.
Nhiều người sử dụng BCTC hiểu sai
về bản chất cuộc kiểm toán cũng như ý kiến mà kiểm toán viên đưa ra. Một số
người quá chú trọng đến BCTC đã được kiểm toán đính kèm báo cáo kiểm toán mà
quên mất ý kiến quan trọng của kiểm toán viên. Một số lại cho rằng ý kiến chấp
nhận toàn phần có nghĩa là BCTC được kiểm toán là hoàn hảo, chính xác và đơn vị
được kiểm toán đã tuân thủ đúng chuẩn mực và chế độ kế toán … Một số khác lại
cho rằng BCTC cần trình bày tất cả các thông tin về mọi khía cạnh của đơn vị
được kiểm toán … Sự khác biệt trong cách nhìn nhận và hiểu biết giữa những
người sử dụng BCTC và kiểm toán viên đã nảy sinh rất nhiều rắc rối và sự hiểu
lầm không đáng xảy ra. Sự khác biệt này được cho là có khoảng cách kỳ vọng giữa
những người sử dụng BCTC và kiểm toán viên và công ty kiểm toán.
2. Khái niệm khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán
Chủ đề “khoảng cách kỳ vọng kiểm toán” nổi lên trong những năm 1970. Hơn 40
năm qua, đề tài này đã được quan tâm rộng rãi trên toàn thế giới. Tuy nhiên,
theo Humphrey và các cộng sự (1993) điều này hoàn toàn bình thường vì đề tài
này đã xuất hiện hàng trăm năm qua.
Theo Liggio (1974), khoảng cách
kỳ vọng kiểm toán là sự khác biệt giữa mức độ dự định thực hiện theo nhận thức
của kiểm toán viên và của những người sử dụng BCTC. Ủy ban Cohen (1978) về
trách nhiệm của kiểm toán viên mở rộng khái niệm này bằng việc xem xét xem có
khoảng cách nào tồn tại giữa những gì mà công chúng kỳ vọng và những gì mà kiểm
toán viên có thể và nên dự định thực hiện.
Theo Guy và Sullivan (1988), có
sự khác biệt giữa những gì mà công chúng và những người sử dụng BCTC tin tưởng kiểm
toán viên chịu trách nhiệm và những gì mà kiểm toán viên tin tưởng họ chịu
trách nhiệm. Godsel (1992) mô tả khoảng cách kỳ vọng là khoảng cách mà công
chúng tin tưởng về nhiệm vụ và trách nhiệm của kiểm toán viên và thông điệp thể
hiện trong Báo cáo kiểm toán.
Monroe và Woodliff (1993) cho
rằng khoảng cách kỳ vọng kiểm toán là sự khác biệt về niềm tin giữa kiểm toán
viên và công chúng về nhiệm vụ và trách nhiệm mà kiểm toán viên đảm nhận và
thông điệp trình bày trong báo cáo kiểm toán. Theo Viện Kế toán viên Công chứng
Hoa Kỳ (1993), khoảng cách kỳ vọng đề cập đến sự khác biệt giữa những gì mà
công chúng và người sử dụng BCTC tin rằng trách nhiệm của kiểm toán viên phải
làm và những gì mà kiểm toán viên tin rằng trách nhiệm họ phải làm. Viện Kế
toán viên Công chứng Úc (1994) cho rằng khoảng cách kỳ vọng là sự khác biệt về
kỳ vọng của người sử dụng BCTC và chất lượng lập BCTC & chất lượng dịch vụ
kiểm toán.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng
mặc dù các khái niệm với các từ ngữ khác nhau nhưng các khái niệm trên đều đề
cập đến sự khác biệt nhận thức của những người sử dụng kết quả kiểm toán về
hoạt động kiểm toán và sự nhận thức của kiểm toán viên khi thực hiện hoạt động
này.
3. Các nghiên cứu về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán
Các nghiên cứu về khoảng cách kỳ
vọng trong kiểm toán đề cập về bản chất của khoảng cách kỳ vọng kiểm toán ở các
nước khác nhau trên thế giới. Các nghiên cứu này chỉ ra sự khác biệt trong nhận
thức về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán. Cơ sở cho các nghiên cứu về khoảng
cách kỳ vọng kiểm toán nằm trong các công trình chuyên đề của Lee (1970) và
Beck (1974), những người đã nghiên cứu các công việc mà kiểm toán viên dự kiến
sẽ thực hiện. Hầu hết các nghiên cứu khẳng định rằng kiểm toán viên và quan
điểm của công chúng về vai trò và trách nhiệm của kiểm toán viên có thể thu
được thông qua bảng câu hỏi. Liggio (1974a) đã hình dung được sự thay đổi trong
vai trò của kiểm toán viên ở giai đoạn đầu. Sau đó, ông là người đầu tiên đưa
ra khái niệm về khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán (Liggio, 1974 b).
Ở Mỹ, Baron và các cộng sự (1977)
đã kiểm tra mức độ trách nhiệm phát hiện của kiểm toán viên đối với các sai sót
trọng yếu, gian lận và các hành vi bất hợp pháp. Họ cố gắng xác định xem liệu
có bất kỳ sự khác biệt nào trong nhận thức liên quan đến việc phát hiện và
trách nhiệm công bố giữa kiểm toán viên và những người sử dụng BCTC. Họ phát
hiện ra rằng kiểm toán viên và những người sử dụng BCTC có niềm tin khác nhau về
việc phát hiện và trình bày các sai phạm và các hành vi bất hợp pháp. Đặc biệt,
những người sử dụng BCTC yêu cầu kiểm toán viên có trách nhiệm nhiều hơn trong
việc phát hiện và báo cáo gian lận và các hành vi không tuân thủ pháp luật hơn
là những gì mà kiểm toán viên cho rằng mình phải làm.
Low (1980) đã kiểm tra khoảng
cách kỳ vọng trên tại Úc. Mức độ phát hiện và trách nhiệm công bố sai sót, gian
lận và các hành vi bất hợp pháp theo nhận thức của kiểm toán viên và những
người sử dụng BCTC được nghiên cứu. Kết quả là cả hai nhóm có nhận thức hoàn
toàn khác nhau. Nghiên cứu này cũng nhất quán với nghiên cứu của Beck (1974) và
Beck cho rằng những bên liên quan có kỳ vọng cao hơn về hoạt động kiểm toán hơn
là những gì mà kiểm toán viên đang thực hiện.
Low và các cộng sự (1988) đã kiểm
tra mức độ của khoảng cách kỳ vọng giữa kiểm toán viên và các nhà phân tích tài
chính về mục tiêu kiểm toán trong môi trường Công ty khách hàng tại Singapore.
Kết quả chỉ ra rằng mục tiêu cơ bản của cuộc kiểm toán là đưa ra ý kiến về
BCTC. Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng cuộc kiểm toán như là sự bảo đảm về
tính chính xác về BCTC của một đơn vị. Hơn nữa, nhận thức của các nhà phân tích
trong việc ngăn chặn và phát hiện sai phạm trọng yếu từ phía kiểm toán viên
khắt khe hơn là những gì mà kiểm toán viên phải thực hiện.
Humphrey và các cộng sự (1992) thực
hiện cuộc điều tra để thu thập bằng chứng về ý kiến và nhận thức về kiểm toán
từ nhiều nhóm người khác nhau. Kết quả chỉ ra không có sự khác biệt đáng kể về
nhận thức rằng BCTC phải tuân thủ theo luật định và chuẩn mực, nhưng có sự khác
biệt đáng kể về vai trò của kiểm toán viên. Nói chung, kiểm toán viên cho rằng
họ có trách nhiệm và vai trò ít hơn so với những người sử dụng BCTC kỳ vọng về
họ. Một điều thú vị là 71% kiểm toán viên không cho rằng Bảng cân đối kế toán
trình bày trung thực về tình hình tài chính, trong khi đó 51% Giám đốc tài
chính và 81% những người sử dụng kết quả kiểm toán lại có ý kiến ngược lại.
Gloeck và De Jager (1993) đo
lường khoảng cách kỳ vọng kiểm toán tại Cộng hòa Nam Phi. Kết quả chỉ ra rằng
có khoảng cách kỳ vọng kiểm toán và có 3 vấn đề chính cần quan tâm (i) thiếu
tính độc lập của kiểm toán viên; (ii) vai trò không rõ ràng của kiểm toán viên,
đặc biệt liên quan đến gian lận và tính liên tục hoạt động; (iii) sự không thỏa
mãn về kiểm toán bắt buộc đối với các công ty có quy mô nhỏ. Hơn 60% người trả
lời cho rằng kiểm toán viên bị ảnh hưởng đáng kể từ phía các nhà quản lý của
công ty khách hàng.
Epstein và Geiger (1995) nghiên
cứu về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán giữa các nhà đầu tư và kiểm toán viên, và
kết luận rằng (i) các nhà đầu tư kỳ vọng nhiều hơn về mức độ bảo đảm liên quan
đến gian lận và sai sót; (ii) thiếu sự hiểu biết liên quan đến sự khác biệt về
khả năng của kiểm toán viên phát hiện sai phạm do gian lận và sai sót gây ra; (iii)
các nhà đầu tư không hiểu được sự khó khăn trong việc phát hiện các sai phạm
trọng yếu do gian lận và sai sót như kiểm toán báo cáo tài chính.
Dựa trên các phát hiện này,
Epstein và Geiger cho rằng kiểm toán viên cần thông báo cho công chúng về những
khó khăn trong việc phát hiện gian lận và kiểm toán viên cần tăng cả về chất
lượng và số lượng các dịch vụ kiểm toán để cung cấp cho các nhà đầu tư mức độ
bảo đảm cao hơn.
Best và các cộng sự (2001) thu
thập bằng chứng về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán tại Singapore. Nghiên cứu này
cung cấp chi tiết hơn về bản chất và phạm vi của khoảng cách kỳ vọng kiểm toán.
Có sự khác biệt đáng kể về trách nhiệm của kiểm toán viên trong việc phát hiện
tất cả các gian lận và sai sót; trong khi đó kiểm toán viên lại cho rằng không
có trách nhiệm trong việc phát hiện và ngăn chặn gian lận và sai sót. Ngoài ra,
các nhà đầu tư còn cho rằng kiểm toán viên có trách nhiệm về hoạt động hữu hiệu
của hệ thống kiểm soát nội bộ tại công ty khách hàng.
Còn rất nhiều các nghiên cứu khác
về khoảng cách kỳ vọng kiểm toán tại các nước khác nhau như nghiên cứu của
Vinten (2005) tại Anh và New Zealand; nghiên cứu của Swamy (2007) tại Ấn Độ …
Các nghiên cứu này cũng chỉ ra có sự khác biệt trong cách nhìn nhận và hiểu
biết giữa những người sử dụng kết quả kiểm toán và kiểm toán viên thực hiện
cuộc kiểm toán về các khía cạnh khác nhau như mục tiêu kiểm toán, vai trò của
kiểm toán viên, ý kiến kiểm toán, trách nhiệm phát hiện và báo cáo gian lận và
sai sót, công bố và trình bày thông tin …
4. Kết luận
Hoạt động kiểm toán không chỉ đơn
thuần đưa ra ý kiến mà còn xác minh các thông tin tài liệu tài chính kế toán và
tính tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực khi lập BCTC do các nhà quản lý trong
doanh nghiệp áp dụng. Tổng hợp các nghiên cứu về kỳ vọng kiểm toán chỉ ra có sự
tồn tại “khoảng cách/gap”. Khoảng cách kỳ vọng này tồn tại dựa trên sự khác
biệt về nhận thức của kiểm toán viên và những người sử dụng kết quả kiểm toán.
Một khi kiểm toán ngày càng giữ vai trò quan trọng thì những người sử dụng BCTC
ngày càng trở nên thông minh hơn và họ kỳ vọng kiểm toán viên sẽ bảo vệ lợi ích
cho họ và BCTC được kiểm toán sẽ giúp họ đưa ra các quyết định kinh tế đúng
đắn.
Để giảm khoảng cách kỳ vọng này,
theo Titard và các cộng sự (2004) thì việc đào tạo kiểm toán trong các trường
đại học là rất cần thiết và cũng cần giảm các vụ bê bối tại các doanh nghiệp mà
nó đang lan tràn trên toàn thế giới. Xu thế giảm khoảng cách kỳ vọng kiểm toán
là xu thế được báo trước của thời kỳ khi mà công tác quản trị doanh nghiệp và hoạt
động dựa trên đạo đức nghề nghiệp rất được coi trọng.
Về tổng thể, nghiên cứu về nhận
thức khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán chỉ ra rằng có sự khác biệt về nhận
thức luôn tồn tại giữa kiểm toán viên và những người sử dụng BCTC liên quan đến
nghề nghiệp kiểm toán. Khoảng cách này cần được rút ngắn bởi chính kiểm toán
viên thông qua việc nâng cao trách nhiệm kiểm toán, nâng cao nhận thức của
những người sử dụng BCTC qua giáo dục, đào tạo và tuân thủ các chuẩn mực nghề
nghiệp.
Tại Việt Nam, ngành kiểm
toán độc lập được hình thành hơn 20 năm qua. Trong thời gian đầu, hiểu biết về
kiểm toán cũng như cách nghĩ cách làm còn rất nhiều lúng túng từ chính các kiểm
toán viên và công ty kiểm toán. Công chúng hầu như chưa hiểu rõ về hoạt động
kiểm toán cũng như ý kiến mà các kiểm toán viên đưa ra. Cho nên, trong thời kỳ
này khoảng cách kỳ vọng giữa những người sử dụng kết quả kiểm toán và kiểm toán
viên có sự chênh lệch lớn. Tuy nhiên, dần theo năm tháng, có sự nâng cao hiểu
biết cả từ phía kiểm toán viên và công ty kiểm toán, và những người sử dụng
BCTC thì khoảng cách kỳ vọng kiểm toán giữa hai đối tượng này có xu hướng thu
hẹp lại.
Cũng phải thừa nhận rằng những
người sử dụng kết quả kiểm toán rất đa dạng. Họ có thể là các nhà quản lý doanh
nghiệp, cổ đông, nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế … và cũng không phải những
người sử dụng này đều có thể hiểu rõ về bản chất của BCTC cũng như hoạt động
kiểm toán mà kiểm toán viên thực hiện. Do vậy, phải chăng khoảng cách kỳ vọng kiểm toán tồn tại một cách khách quan cho dù
chính kiểm toán viên và những người sử dụng BCTC đang nâng cao trình độ nhận
thức và thuyết phục giữa hai bên. Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng khoảng cách kỳ
vọng kiểm toán có quan hệ tỷ lệ thuận với sự phát triển của nghề nghiệp kiểm
toán và nhận thức của những người sử dụng kết quả kiểm toán tại các quốc gia,
trong đó có Việt Nam.
TS. Trần Mạnh Dũng (CPA) ThS. Lại Thị Thu
Thủy
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Trường Đại học Thương Mại