Tác giả : Hồng Dương
Đất đai là tài sản Quốc gia,
là tài nguyên không tái tạo, có liên quan đến toàn bộ đời sống , kinh tế - xã
hội. Từ bao đời nay các cuộc chiến tranh giữa các quốc gia cũng chỉ vì tranh
chấp đất đai. Vì vậy để nâng cao tinh thần, trách nhiệm của mọi tổ chức và cá
nhân trong việc bảo vệ và sử dụng đất đai, bảo vệ môi trường, đưa việc quản lý
và sử dụng đất đai vào quy chế chặt chẽ, khai thác tiềm năng của đất đai một
cách hợp lý và hiệu quả, triệt để tiết kiệm đất, góp phần vào công cuộc cải cách
đất nước, đảm bảo công bằng xã hội, từng bước đưa nông nghiệp, lâm nghiệp lên
sản xuất lớn, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, chính vì vậy mà ngày 29 tháng 12 năm 1987, Luật Đất đai của nước ta chính
thức được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ
2 thông qua. Luật này gồm có 6 chương với 57 Điều khoản, là căn cứ pháp lý quan
trọng để quản lý , giám sát chế độ quản lý đất đai; chế độ sử dụng các loại đất;
Nghĩa vụ và quyền lợi của người sử dụng đất; Những quy định về sử dụng đất đối
với tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức Quốc tế, tổ chức liên doanh, hợp tác
của Việt nam với nước ngoài theo đúng quy định của pháp luật .
Do tầm quan trọng
và mức độ phức tạp của việc quản lý và sử dụng đất đai nên tính từ năm 1987 đến
nay Việt Nam đã có 07 lần chỉnh sửa luật vào các năm, như :
- Luật đất đai
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
năm 1993 thay thế cho luật đất đai năm 1987 .
- Luật sửa đổi bổ sung
Luật đất đai nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
năm 1998
-
Luật sửa đổi bổ sung luật đất đai nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2001.
-
Luật đất đai nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam năm 2003
-
Luật sửa đổi bổ sung luật đất đai nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2008
-
Luật sửa đổi bổ sung luật đất đai nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2009
-
Luật sửa đổi bổ sung luật đất đai nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2010
Qua đó có thể
thấy rằng Luật đất đai là một trong những đạo luật lớn và quan trọng trong hệ
thống pháp luật dân sự Việt nam, sau một thời gian áp dụng mặc dù đã đựơc chỉnh
sửa nhiều lần, song đến nay vẫn còn nhiều điểm bất hợp lý, dẫn đến tình trạng sử
dụng đất không hiệu quả, gây tranh cãi,
khiếu kiện kéo dài , làm mất ổn định xã hội .
Để luật đất đai thực sự là
nền tảng pháp lý vững trắc và ổn định, làm căn cứ cho việc triển khai, quản lý
và đảm bảo tính công bằng, tránh các tiêu cực xẩy ra liên quan đến đất đai, trên
cơ sở kết quả tổng kết thi hành luật đất đai năm 2003 và những quan điểm, định
hướng nêu trong Nghị quyết số 19-NQ/ TW, Quốc hội và các Bộ, ngành liên quan
chỉnh sửa và hoàn thiện dự thảo luật đất đai sửa đổi để tổ chức lấy ý kiến của
nhân dân và đặc biệt là ý kiến đóng góp của các nhà làm luật. Dự thảo luật đất
đai sửa đổi những điểm mới cần bổ sung và chỉnh sửa cho phù hợp với tình hình
thực tế hiện nay.
Với góc độ là một người
dân đã được trang bị kiến thức về pháp luật, tác giả xin đóng góp một số điểm
sau đây :
Tại
chương I : Những quy định chung
Việc sửa đổi nội dung giải
thích một số từ ngữ chuyên môn; bổ sung trường hợp người sử dụng đất là tổ chức
kinh tế liên doanh; bổ sung quy định về người chịu trách nhiệm trước nhà nước
đối với việc sử dụng đất, với đất được giao để quản lý.
Theo tác giả việc sửa
đổi bổ sung như vậy là hoàn toàn hợp lý, giúp cho người dân hiểu được nội dung
cơ bản của luật đất đai, từ đó giúp họ có ý thức hơn trong việc chấp hành pháp
luật, đồng thời nêu cao được vai trò, trách nhiệm của cá nhân, tổ chức có liên
quan đến việc quản lý và sử dụng đất. Cũng trong chương này luật bổ sung nội
dung về phân loại đất; căn cứ xác định loại đất làm cơ sở cho việc bồi thường,
hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất, tính thu các khoản nghĩa vụ tài chính về đất
đai; bổ sung quy định về những hành vi bị nghiêm cấm. Những bổ sung này là hoàn
toàn phù hợp trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, nhằm đảm bảo tính
công bằng và minh bạch trong việc cấp đất và quản lý đất đai. Tuy nhiên để đảm
bảo những nội dung đổi mới của luật
được thực hiện một cách nghiêm túc cần phải có chế tài đi kèm, đồng thời phải
được thực hiện và quản lý chặt chẽ của các cơ quan chuyên môn có liên quan, có
như vậy mới tạo ra được sự đồng tình và ủng hộ của người dân trong xã hội .
Tại chương II : Quyền của nhà nước và trách nhiệm quản lý của nhà nước
đối
với đất đai
Đây là chương hoàn toàn mới so với luật đất đai năm 2003. Chương này
quy định rõ Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu toàn dân đối với đất
đai, như quyết định mục đích sử dụng đất; quy định hạn mức đất, thời hạn sử dụng
đất; quyết định thu hồi đất, trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất; quy
định giá đất; quyết định chính sách tài chính về đất đai; quy định quyền và
nghĩa vụ của người sử dụng đất. Đồng thời quy định trách nhiệm quản lý nhà nước
đối với đất đai, như: Trách nhiệm quản lý nhà nước về đất đai; cơ quan quản lý
đất đai và tổ chức dịch vụ công về đất đai; công chức địa chính xã, phường, thị
trấn; trách nhiệm của nhà nước về đất ở, đất sản xuất nông nghiệp đối với đồng
bào dân tộc thiểu số; trách nhiệm của nhà nước trong việc cung cấp thông tin về
đất đai.
Những
quy định này xuất phát từ cơ sở: Đất đai là tài sản quốc gia,
là tài nguyên không tái tạo. Vì vậy, đất đai phải được quản lý chặt chẽ
và thống nhất để tránh các hiện tượng lợi dụng chức quyền, địa vị chính trị dẫn
đến tham nhũng, gây nên các bất hòa, khiếu kiện kéo dài, làm bất ổn định chính
trị, gây thiệt hại cho nhà nước. Theo tác giả những điểm đổi mới ở chương II là
hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo niềm tin cho người dân,
giúp họ có ý thức trong việc bảo vệ, quản lý và sử dụng đất đai được giao một
cách hiệu quả nhất .
Tại chương III : Địa giới hành chính và điều tra cơ bản về đất đai
Trong chương này điểm mới được
bổ sung đó là: Quy định về các hoạt động, nội dung và tổ chức thực hiện điều
tra, đánh giá đất đai; thực hiện kiểm kê đất đai theo chuyên đề nhằm phục vụ cho
các yêu cầu quản lý nhà nước về đất đai và phát triển kinh tế - xã hội .
Việc bổ
sung thêm các điểm mới nêu trên là hoàn toàn phù hợp, nhằm cụ thể hóa và chi
tiết hơn về địa giới hành chính và điều tra cơ bản về đất đai, giúp cho công tác
quản lý nhà nước về đất đai chặt chễ và minh bạch. Tuy nhiên,
trong luật chưa quy định rõ cơ quan chịu
trách nhiệm thực hiện các nội dung đổi mới. Vì vậy khi tổ chức thực hiện sẽ khó
phân định trách nhiệm cho các bộ phận có liên quan.
Tại chương IV: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Trong chương này, điểm mới được
bổ sung đó là quy định về hệ thống quy hoạch , kế hoạch sử dụng đất; quy định kỳ
quy hoạch sử dụng đất; căn cứ, nội dung lập quy hoạch; quy định trách nhiệm nội
dung thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; quy định về tổ chức hoạt động tư
vấn quy hoạch sử dụng đất; quy định trách nhiệm của Thủ tướng chính phủ trong
việc phân bổ chỉ tiêu sử dụng đất .
Việc
bổ sung quy định về hệ thống quy hoạch như trên theo tác giả là hoàn toàn phù
hợp. Tuy nhiên, một số từ ngữ trình bầy trong luật ở chương này chưa thật đầy đủ
và chính xác, như căn cứ, nội dung lập quy hoạch; quy định trách nhiệm nội dung
lập quy hoạch nên thay bằng từ: Căn cứ, nội dung, phương pháp lập quy hoạch; quy
định trách nhiệm, nội dung cần thẩm định trong quy hoạch mới đầy đủ và chính xác.
Mặt khác việc lồng ghép quy hoạch sử dụng đất của các vùng kinh tế - xã hội vào
quy hoạch sử dụng đất quốc gia hoặc lồng ghép quy hoạch sử dụng đất cấp xã vào
với cấp huyện. Việc lồng ghép này theo tác giả là không hợp lý vì kỳ quy hoạch
của mỗi cấp là không giống nhau, dẫn đến nội dung trong quy hoạch của từng cấp
cũng sẽ khác nhau.
Tại chương V : Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất
Điểm mới của
chương này đó là: Quy định việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng
đất phải có đơn xin giao đất, thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; quy định
điều kiện giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án phát triển kinh tế - xã
hội ; thu hẹp đối tượng được giao đất có thu tiền hoặc không thu tiền sử dụng
đất, chuyển cơ bản sang áp dụng hình thức nhà nước cho thuê đất .
Việc bổ sung
những điểm mới trong chương này là hoàn toàn hợp lý, nhằm giảm thiểu các tiêu
cực trong việc giao đất, cho thuê đất và chuyển đổi mục đích sử dụng đất.
Tại chương VI : Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất
Đây là chương được bổ sung khá
nhiều điểm mới so với luật đất đai năm 2003, những điểm mới đó là :
Mục
1 : Thu hồi đất . Trong mục này
điểm mới được bổ sung trong dự thảo luật , như :
- Quy
định cụ thể các trường hợp thu hồi đất và căn cứ thu hồi đất .
- Quy
định cụ thể việc xử lý đối với trường hợp đất đã được nhà nước giao, cho thuê để
thực hiện dự án đầu tư mà không được sử dụng theo thời gian quy định .
-
Quy định nhà nước chủ động thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất cấp
huyện đã được phê duyệt; tổ chức việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư để tạo quỹ
đất sạch, sau đó nhà nước giao đất, cho thuê đất để sử dụng vào mục đích quốc
phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng ...
-
Bổ sung quy định về trường hợp tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng đã thỏa thuận với người có đất bị thu hồi về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư.
-
Đổi mới quy định về quản lý quỹ đất đã thu hồi theo hướng giao trách
nhiệm này cho tổ chức phát triển quỹ đất .
-
Sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất theo hướng Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp
Tỉnh quyết định thu hồi đất đối với trường hợp khu đất thu hồi có cả tổ chức và
hộ gia đình , cá nhân đang sử dụng.
-
Quy định cụ thể về trình tự, thủ tục thu hồi đất để giao đất, cho thuê
đất theo 02 hình thức. Một là: Thu hồi đất theo kế hoạch sử dụng đất; Hai là:
thu hồi để giao đất , cho thuê đất theo hình thức chỉ định chủ đầu tư .
-
Bổ sung quy định cưỡng chế quyết định về kế hoạch thu hồi đất, điều tra,
khảo sát đo đạc, kiểm kê và quyết định thu hồi đất; quy định thẩm quyền cưỡng
chế thu hồi đất theo hướng Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền thu hồi
đất là người có thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng chế .
Trong mục này
luật bổ sung quá nhiều các quy định, gây phức tạp trong tổ chức thực hiện. Theo
tác giả chỉ cần phân chia thành 02 nhóm: Nhóm thứ nhất là quy định các trường
hợp nhà nước phải thu hồi đất, căn cứ, trình tự, thủ tục thu hồi đất để giao đất
hoặc cho thuê đất; Nhóm hai là Quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn và nhiệm vụ
của cơ quan quản lý quỹ đất; còn nhóm quy định việc bồi thường theo từng loại
đất, từng vị trí đất cho từng đối tượng bị thu hồi đất nên chuyển xuống mục 2 để
tránh trùng lắp.
Mục2
: Bồi thường về đất, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
Trong mục này điểm mới được
bổ sung thêm , như :
-
Tách riêng nguyên tắc bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất thành
một
điều riêng .
-
Bổ sung thêm trường hợp sử dụng đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả
thời gian thuê thì được bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đất
-
Quy định cụ thể về bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại .
-
Quy định việc bồi thường về đất khi nhà nước thu hồi đối với từng loại
đất, từng đối tượng cụ thể, chi phí đầu tư vào đất còn lại
-
Bổ sung quy định về nguyên tắc hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất .
-
Sửa đổi và bổ sung quy định về bố trí tái định cư cho người bị thu hồi
đất ở mà phải di chuyển chỗ ở .
Bổ sung quy định về
việc bồi thường, hỗ trợ tái định cư đối với các dự án đặc biệt.
Trong
mục này theo tác giả cần nhóm thành 02 nhóm ( bao gồm cả các quy định việc bồi
thường theo từng loại đất, từng vị trí đất từ mục 1 chuyển xuống ): Nhóm 1 là
nguyên tắc bồi thường và hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất; Nhóm 2 là quy định
việc bồi thường cho người bị thu hồi đất theo từng loại đất, từng vị trí đất với
từng đối tượng cụ thể theo mức giá quy định của nhà nước, nhưng phải đảm bảo hài
hòa lợi ích giữa nhà nước và người dân được bồi thường.
Mục 3 : Bồi thường thiệt hại về tài sản,
về sản xuất, kinh doanh khi nhà nước
thu hồi đất
Đây là mục mới hoàn toàn so
với luật đất đai năm 2003, mục này bao gồm các nội dung sau :
-
Nguyên tắc bồi thường thiệt hại về tài sản và về sản xuất kinh doanh khi
nhà nước thu hồi đất .
-
Bồi thường thiệt hại về nhà, công trình xây dựng trên đất khi nhà nước
thu hồi đất ; bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi, chi phí di chuyển khi nhà
nước thu hồi đất .
-
Bồi thường thiệt hại do bị hạn chế khả năng sử dụng đất, thiệt hại tài
sản gắn liền với đất .
-
Những trường hợp nhà nước thu hồi đất không được bồi thường thiệt hại về
tài sản gắn liền với đất .
Trong mục này
luật tách riêng phần bồi thường thiệt hại về tài sản trên đất, bồi thường thiệt
hại do bị hạn chế khả năng sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất theo tác giả có
02 cách giải quyết. Cách 1 là gộp vào với mục 2 chỉ thêm nội dung; cách 2 có thể
để thành mục riêng như hiện tại .
Trên đây là
một số góp ý của tác giả về dự thảo luật đất đai sửa đổi. Do bản dự thảo Luật
Đất đai sửa đổi quá dài, tác giả sẽ có ý kiến vào phần 2 của luật ( từ chương 7
đến chương 14 ) vào bài viết của kỳ sau.
Tài liệu tham khảo : Luật
đất đai năm 2003; Luật Đất đai sửa đổi các năm, 2008, 2009, 2010, luật dự thảo
đất đai sửa đổi năm 2012 .