Ảnh minh họa: Nguồn Internet
Cơ hội phát triển
Tại Việt Nam,
mô hình DNXH vẫn còn khá mới, với khoảng 300 doanh nghiệp đang hoạt động và
hàng ngàn tổ chức, trung tâm có thể phát triển thành DNXH.
Theo TS. Nguyễn
Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), Việt
Nam là quốc gia có những điều kiện để phát triển loại hình doanh nghiệp này.
Khảo sát của
CIEM trong những năm gần cho thấy, nhiều thanh niên mới ra trường có khát vọng
được góp phần giải quyết những vấn đề còn tồn đọng của xã hội. Có những người
đã sẵn sàng từ bỏ công việc với mức lương hàng nghìn USD/tháng khởi nghiệp bằng
một DNXH.
Vai trò quan
trọng của DNXH đối với kinh tế - xã hội đã được khẳng định với việc luật hóa
DNXH trong Luật Doanh nghiệp 2014. Đây là tiền đề quan trọng cho việc hình
thành môi trường pháp lý và những chính sách phù hợp khuyến khích cho sự phát
triển của DNXH.
DNXH được hiểu
một cách chung nhất là những doanh nghiệp hoạt động không vì mục tiêu tối đa
hóa lợi nhuận mà hướng tới mục tiêu giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi
ích cộng đồng và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp
để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký.
Hiện, có một số
DNXH đã tạo dựng được thương hiệu, điển hình như: Trường đào tạo nghề nhân đạo
Koto với chuỗi nhà hàng ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Trong hơn một
thập kỷ phát triển, Koto đã nhận đào tạo nghề nấu ăn, dịch vụ khách sạn, nhà
hàng cho rất nhiều trẻ em lang thang, có hoàn cảnh khó khăn. Không ít học viên
của Koto sau này đã tự mở được nhà hàng hoặc tìm được việc làm ổn định tại các
khách sạn, nhà hàng có tiếng.
Công ty TNHH
Thủ công Mai (MVH) là một DNXH đã tạo ra hàng nghìn việc làm cho những người
thợ thủ công, trong đó phần lớn là phụ nữ nghèo tại các vùng quê hẻo lánh. Mục
tiêu của MVH là tạo thu nhập và nâng cao khả năng tự lập của người nghèo và
chịu thiệt thòi thông qua thương mại công bằng.
Một ví dụ nữa
là DNXH Tò he với mục tiêu tạo ra cơ hội cho trẻ em thiệt thòi, khuyết tật cơ
hội sáng tạo nghệ thuật độc đáo, từ đó chọn lọc tạo ra các sản phẩm quần áo,
phụ kiện, đồ gia dụng, văn phòng phẩm... phân phối tại thị trường Việt Nam và
quốc tế.
Một phần lợi
nhuận được sử dụng để tiếp tục mở rộng chương trình lớp học sáng tạo và chương
trình học bổng cho các em có năng khiếu. Tò he cũng mong muốn gợi ý cho các em
nhỏ về một lựa chọn nghề nghiệp trong lĩnh vực sáng tạo nếu các em có khả năng.
Qua 9 năm hoạt
động, Tò he đã triển khai hơn 150 sân chơi nghệ thuật miễn phí cho hơn 1.000
trẻ em thiệt thòi tại 11 trung tâm bảo trợ xã hội, 3 trường tiểu học ở vùng
sâu, vùng xa và sẽ tiếp tục mở rộng sân chơi tới những nơi xa hơn trên khắp đất
nước.
Bên cạnh đó, Zó
Project là dự án theo đuổi mục tiêu trở thành một DNXH hoạt động trong lĩnh vực
bảo tồn và phát triển làng nghề giấy thủ công truyền thống của Việt Nam.
Zó Project
hướng tới gìn giữ và phát huy kỹ thuật làm giấy cổ xưa của dân dộc, song, có
cải thiện quy trình làm giấy theo hướng bền vững về môi trường, tạo thêm giá
trị cho giấy thủ công của Việt Nam bằng các sản phẩm thủ công có giá trị kinh
tế cao.
DNXH ở Việt Nam
đang trong giai đoạn phát triển sơ khai nhưng tiềm năng phát triển còn rất lớn.
DNXH góp phần chia sẻ trách nhiệm và gánh nặng xã hội với Nhà nước bằng các con
đường riêng đầy sáng tạo, tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả, đồng thời giúp bù
đắp được một khiếm khuyết khó khắc phục của cơ chế thị trường là vận hành bởi
động cơ lợi nhuận.
Trong điều kiện
đất nước còn nhiều khó khăn do hậu quả của chiến tranh kéo dài, thường xuyên
phải đối mặt thiên tai... nhưng nguồn lực lại có hạn, thì các hoạt động chung
tay vì cộng đồng, vì những người khuyết tật, những người có hoàn cảnh éo le...
của DNXH là hành động thiết thực. Hiện đang có hàng ngàn tổ chức cộng đồng, tổ
chức thiện nguyện, tổ chức phi lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau đã được
thành lập và có khả năng chuyển đổi sang mô hình DNXH.
Khó khăn lớn nhất là vốn
Do phần lớn
DNXH hoạt động ở quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính chưa mạnh, không có tài sản,
nhà xưởng thế chấp nên khó tiếp cận vốn tín dụng, nếu có vay được thì lãi suất
vay thường cao hơn khả năng sinh lời của DNXH.
Theo đánh giá
của các chuyên gia, các DNXH ở Việt Nam còn khá non trẻ, vốn đầu tư nhỏ. Hơn
nữa, DNXH lại kinh doanh trên các thị trường có rủi ro cao, lợi suất tài chính
thấp nên không hấp dẫn các nhà đầu tư thương mại. Do đó, khả năng tiếp cận, huy
động các nguồn vốn đầu tư thương mại rất hạn chế.
Kết quả điều
tra cấu trúc tài sản của DNXH cho thấy, phần lớn nguồn vốn của DNXH là vốn tự
có (20,3%) và vốn tích lũy từ các hoạt động sản xuất - kinh doanh (45,4%), một
phần nhỏ từ tài trợ (5,3%), vốn vay khác như ngân hàng, gia đình, bạn bè chỉ
chiếm 28,8%, trong khi đây là nguồn vốn lưu động quan trọng cho phát triển sản
xuất - kinh doanh.
Kym Viet, một
trong những DNXH dành cho người khiếm thính gặp khó khăn trong việc kêu gọi vốn
đầu tư. Vốn của Kym Viet rất nhỏ, nên không sản xuất được nhiều sản phẩm, hơn
nữa thời gian quay vòng vốn rất lâu, doanh thu thường không đủ bù vốn.
Bên cạnh những
khó khăn về vốn và tiếp cận nguồn vốn, DNXH hiện nay cũng phải đối mặt với vấn
đề về nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực của DNXH chủ yếu là nhóm những người thiệt
thòi, kém may mắn như người khuyết tật… là nguồn lao động có chất lượng thấp,
tính ổn định kém nên năng suất lao động không cao. Cùng với đó là chi phí đào
tạo nguồn nhân lực này cũng cao hơn so với bình thường.
Cần sự hỗ trợ của Nhà nước
Một số ý kiến
DNXH cho rằng, ngoài sự nỗ lực của chính bản thân các DNXH, cần có sự hỗ trợ
của Nhà nước thông qua các chính sách khởi nghiệp cho DNXH.
Đối với những
DNXH đang hoạt động cần phải có những ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích về đầu tư,
thuế, quỹ đất; hỗ trợ về tài chính, nhân lực; phát triển quỹ tài chính hoặc
nguồn tài chính để giúp cho DNXH phát triển.
Về vấn đề nguồn
vốn, DNXH có thể tìm cách kêu gọi, thu hút vốn vay và có bảo lãnh của các tổ
chức từ thiện hoặc Chính phủ; phát hành nợ có đặc trưng của vốn chủ sở hữu với
việc phát hành nợ cho các nhà đầu tư và nhà đầu tư được nhận lãi dựa vào hiệu
quả sản xuất - kinh doanh của DNXH.
Mới đây, Bộ Tài
chính mới đây đã đề xuất bổ sung quy định miễn thuế đối với phần thu nhập không
chia của DNXH, đồng thời bổ sung quy định hướng dẫn việc xác định thu nhập
không chia của các cơ sở xã hội hóa hiện hành và DNXH như sau: Phần thu nhập
không chia của cơ sở thực hiện xã hội hóa trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y
tế, lĩnh vực xã hội hóa khác và của DNXH để lại để đầu tư phát triển cơ sở đó
theo quy định của luật chuyên ngành về giáo dục - đào tạo, y tế, xã hội hóa
khác và DNXH; phần thu nhập hình thành tài sản không chia của hợp tác xã được
thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Hợp tác xã.
Cơ sở thực hiện
xã hội hóa, DNXH phải đáp ứng đồng thời 2 điều kiện: (i) Phần thu nhập không
chia là lợi tức từ kinh doanh không chia theo quy định của luật chuyên ngành;
(ii) Phần lợi tức từ kinh doanh khi chia không vượt quá lãi suất trái phiếu
chính phủ. Đề xuất này nếu được chấp thuận, sẽ tạo thêm điều kiện thuận lợi cho
DNXH phát triển.
Theo Thông tin Tài chính