Ảnh minh họa.
nguồn internet
Khu vực công
nghiệp – xây dựng sẽ có tăng trưởng mạnh mẽ, là động lực chính cho sự phục hồi
toàn nền kinh tế. Khu vực dịch vụ sẽ duy trì ở mức tăng trưởng vừa phải trong
khi tăng trưởng của nông lâm thủy sản được đánh giá là khó có thể đạt mức tăng
trưởng cao trong một vài năm tới nếu như chưa thể có những giải pháp đột phá
giúp giải quyết các khó khăn hiện tại giúp nâng cao năng suất và năng lực cạnh
tranh.
Khu vực CN-XD
tiếp tục tăng trưởng bứt phá và trở thành khu vực dẫn dắt tăng trưởng toàn nền
kinh tế trong giai đoạn 2016-2020 khi môi trường kinh doanh tiếp tục khởi sắc
hơn, cầu trong nước cải thiện, và những ảnh hưởng tích cực từ chính sách hỗ trợ
của Chính phủ.
Tuy nhiên,
trong dài hạn, khu vực này vẫn còn đối mặt với những thách thức: i) giá cả một
số nguyên vật liệu đầu vào quan trọng (than,
điện…) không ổn định và nhiều khả năng sẽ tăng giá.
Điều này sẽ bất
lợi cho hoạt động kinh doanh và sản xuất của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến. ii) sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp sản xuất còn yếu, giá trị gia tăng trong sản xuất thấp, hàm lượng khoa
học công nghệ trong sản phẩm chưa cao.
Đáng lo lắng là
công nghiệp chế biến, chế tác và phụ trợ vẫn còn tăng chậm. Đặc biệt, bối cảnh
hội nhập khu vực sâu rộng, cộng đồng chung ASEAN (AEC) sẽ chính thức có hiệu
lực vào cuối năm 2015, chính thức thực thi TPP trong một vài năm tới, nhiều
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh Việt Nam sẽ phải đối mặt với khó khăn lớn
trong cạnh tranh khi năng lực cạnh tranh còn yếu và chưa có sự chuẩn bị tốt cho
hội nhập.
Đối với khu vực
dịch vụ, với sự cải thiện cầu tiêu dùng, xúc tiến thương mại được triển khai
mạnh mẽ, cùng với việc hiện thực hóa của cộng đồng chung ASEAN và thực thi các
hiệp định tự do thương mại mang lại tự do hóa thương mại dịch vụ, và tự do hóa
đầu tư, tài chính sẽ có nhiều tác động tích cực đến việc mở rộng các hoạt động
dịch vụ Việt Nam.
Khu vực dịch vụ
nhiều khả năng sẽ tăng trưởng tốt hơn trong giai đoạn 2016-2020. Tuy nhiên,
trong diễn biến của quá hội nhập khu vực, đi cùng với cơ hội là thách thức lớn
đặt ra lớn đối với ngành dịch vụ khi có sự gia tăng áp lực cạnh tranh từ các
doanh nghiệp của các nước trong khu vực, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, logistic.
Do đó, việc cải
thiện tăng trưởng khu vực dịch vụ sẽ phụ thuộc nhiều việc năng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước hoạt động trong lĩnh vực này.
Đối với khu vực
nông lâm thủy sản, những yếu tố hạn chế về năng suất và khó khăn do xuất khẩu
các mặt hàng NLTS phải đối diện với những yêu cầu ngày càng khắt khe về tiêu
chuẩn chất lượng và các điều kiện thương mại; chi phí đầu vào tiếp tục tăng và
khó khăn trong đầu ra; Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông nghiệp và đưa KHCN vào
nông nghiệp diễn ra chậm, chưa thực sự phản ánh lợi thế so sánh và chưa đáp ứng
triển vọng nhu cầu trong tương lai vẫn sẽ là những yếu tố cản trở đến sự phát
triển của khu vực này trong dài hạn.
Ngoài ra, khi
cộng đồng AEC ra đời và hiện thực hóa TPP cùng với việc giảm thuế quan có thể
khiến luồng hàng nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp và chăn nuôi từ các nước
vào Việt Nam gia tăng, với giá cả cạnh tranh hơn, hệ quả tất yếu là thị phần
hàng hóa liên quan tại Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng và cạnh tranh sẽ gay gắt hơn.
Điều này sẽ gây
ra những khó khăn lớn cho nông dân và các doanh nghiệp trong khu vực này. Sự
phát triển của khu vực này trong tương lai sẽ phụ thuộc nhiều vào hiệu quả tái
cấu trúc và thay đổi mô hình sản xuất gắn với công nghệ hiện đại, chi phí thấp,
giúp nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm nông nghiệp.
Vốn đầu tư
Các dòng vốn
tăng mạnh trở lại, đặc biệt là dòng vốn trong khu vực tư nhân. Bên cạnh đó,
hiệu quả đầu tư, đặc biệt đầu tư công được nâng cao
Cùng với khả
năng phục hồi của nền kinh tế, đồng thời tích cực hội nhập kinh tế quốc tế,
tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài và phát huy nội lực của vốn đầu tư
trong nước, theo đó, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng. Trong đó:
Vốn đầu tư phát
triển nguồn ngân sách Nhà nước:Trong giai đoạn 2016 – 2020 dựa trên kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo đúng các nguyên tắc, tiêu chí quy định
trong Luật Đầu tư công và Chỉ thị số 23/2014/CT-TTg, Chính phủ thể hiện quyết
tâm khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu hiệu quả trong sử dụng vốn đầu
tư từ nguồn ngân sách Nhà nước khi quy định chặt về phê duyệt chủ trương đầu
tư, từ đó, có thể tăng tính trách nhiệm trong lựa chọn dự án, hạn chế tình
trạng đầu tư dàn trải, lãng phí.
Vốn đầu tư phát
triển khu vực tư nhân: Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế trong và ngoài
nước, hoạt động kinh doanh của khu vực tư nhân khởi sắc trở lại đồng nghĩa với
vốn đầu tư khu vực này tăng trưởng. Xu hướng thể hiện rõ sự thay đổi tích cực
trong cơ cấu vốn đầu tư, theo đó, vốn đầu tư của khu vực tư nhân đã gần bắt kịp
khu vực Nhà nước. Hơn nữa, chủ trương ưu tiên bố trí vốn hỗ trợ đầu tư theo
hình thức đối tác công tư (PPP) khuyến khích khu vực tư nhân tham gia đầu tư
phát triển xã hội trong giai đoạn tới như là một kênh huy động vốn hiệu quả,
đặc biệt trong lĩnh vực giao thông vận tải.
Vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài: Theo báo cáo mới đây của Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại
và phát triển (UNCTAD), xu hướng dịch chuyển vốn FDI toàn cầu năm 2015 phân bố
không đồng đều giữa các khu vực, trong đó, châu Á thu hút mạnh mẽ và đạt mức
tăng kỷ lục so với các khu vực khác.
Tuy nhiên, tại
Đông Nam Á, trong khi các quốc gia khác như Myanmar, Indonesia, Thái Lan có tốc
độ tăng trong thu hút vốn FDI tiếp tục tăng, nhưng lại giảm ở Việt Nam. Như
vậy, có thể thấy sức hút về vốn FDI của Việt Nam so với các quốc gia khác trong
khu vực đã suy giảm hơn so với trước.
Tuy nhiên,
trong giai đoạn tới, sau khi Việt Nam hoàn tất nhiều thỏa thuận đàm phán từ các
hiệp định thương mại song phương, đa phương, nhất là hình thành Cộng đồng Kinh
tế ASEAN, thực thi Hiệp định đối tác Kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp
định Đối tác kinh tế khu vực toàn diện (RCEP)… được kỳ vọng sẽ thúc đẩy dòng
vốn FDI vào Việt Nam.
Vốn đầu tư gián
tiếp:Việc thúc đẩy các DNNN hoạt động theo cơ chế thị trường đồng thời phát
triển khu vực kinh tế tư nhân là quan điểm nhất quán của Việt Nam, được thể
hiện rõ nét qua quyết tâm của Chính phủ trong việc cổ phần hóa DNNN gắn với
niêm yết trên TTCK không giới hạn tỷ lệ sở hữu và sở hữu của các nhà đầu tư
nước ngoài sẽ tạo động lực thu hút vốn đầu tư gián tiếp trong giai đoạn
2016-2020.
Tuy nhiên, để
hấp thụ nguồn vốn này, các DN trong nước cần nỗ lực vươn lên, tăng cường quản
trị công ty, quản trị rủi ro, minh bạch và công khai hóa thông tin, đồng thời
cơ quan quản lý cũng phải nâng cao năng lực quản lý, giám sát và điều hành thị
trường nhằm bảo đảm sự ổn định, bền vững của TTCK, vừa thu hút có hiệu quả dòng
vốn đầu tư gián tiếp, vừa hạn chế được những bất lợi phát sinh.
Xuất nhập khẩu
Trong giai đoạn
2016-2020, tình hình xuất nhập khẩu tiếp tục tăng trưởng tốt nhưng với tốc độ
tương đương hoặc tăng nhẹ so với giai đoạn trước. Lý do có thể kể đến là nhu
cầu thế giới, đặc biệt là những đối tác nhập khẩu lớn của Việt Nam được dự báo
khả quan hơn; Thương mại và đầu tư thế giới cũng gia tăng; Các hiệp định thương
mại song phương và đa phương bắt đầu phát huy tác dụng.
Kim ngạch nhập
khẩu Việt Nam được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng ổn định và có nhiều khả năng
nền kinh tế sẽ trở lại vị thế nhập siêu. Điều này được giải thích chủ yếu do
khu vực xuất khẩu tăng trưởng tốt làm tăng nhu cầu sản xuất của khu vực trong
nước, từ đó nâng cao nhu cầu nhập khẩu các nguyên vật liệu, máy móc.
Bên cạnh đó,
trong 2 năm tới,khả năng các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam chưa thể đảm
bảo được nhu cầu sản xuất trong nước là khá cao.
Tiêu dùng dân cư
Sự phục hồi
tích cực của tiêu dùng trong năm 2015 tạo ra bước đệm quan trọng cho tiêu dùng
giai đoạn 2016-2020. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh tế đang phục hồi khả quan,
không có quá nhiều biến động từ bên ngoài, chính phủ tiếp tục các chính sách
bình ổn thị trường, dự báo tiêu dùng trong giai đoạn tới sẽ tiếp tục phục hồi
tích cực.
Ngoài ra, xu
hướng tiết kiệm sẽ giảm xuống do mức lãi suất tiết kiệm đã giảm xuống mức thấp.
Thu nhập của người dân đến năm 2020 có khả năng tăng gấp 2 lần so với năm 2013,
trong khi mức giá ổn định, người dân có thể tăng chi tiêu dùng hoặc đầu tư thay
vì tiết kiệm.
Tâm lý tiêu
dùng thoải mái hơn của người dân cũng sẽ đóng vai trò quan trọng tác động đến
mức tăng trưởng tiêu dùng cao hơn trong thời gian tới.
Giá cả
Trong thời gian
tới lạm phát nhiều khả năng sẽ được tiếp tục duy trì ở mức 5%, điều này sẽ góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô tạo, điều kiện thuận lợi cho quá trình tái cơ cấu
nền kinh tế, đồng thời tiếp tục tháo gỡ khó
khăn cho sản xuất kinh doanh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.
Chính sách tiền
tệ tiếp tục được điều hành chủ động, linh hoạt, phối hợp đồng bộ trong điều
hành các công cụ chính sách tiền tệ; phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ
với các chính sách kinh tế vĩ mô khác, nhất là chính sách tài khóa để hỗ trợ
tăng trưởng kinh tế nhưng không ảnh hưởng đến mục tiêu kiểm soát lạm phát.
Tuy nhiên, để
thúc đẩy tăng trưởng bền vững, thực sự tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, ngoài các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ, cần triển khai quyết
liệt các biện pháp tái cơ cấu doanh nghiệp từ các bộ, ngành và địa phương.
Tài chính tiền tệ
Khu vực tài
chính tiền tệ ổn định, hỗ trợ mạnh cho khu vực doanh nghiệp và ổn định kinh tế
vĩ mô
- Quá trình tái
cơ cấu hệ thống ngân hàng sẽ được đẩy mạnh về chất trong giai đoạn 2016-2020.
Quá trình tái cơ cấu hệ thống NH đã chính thức khởi động từ năm 2012 nhằm ngăn
chăn những rủi ro và nguy cơ bất ổn đã tích tụ nhiều năm trước đó khi hệ thống
NHTM phát triển ồ ạt. Quyết tâm lớn của NHNN và Chính phủ là hoàn thành cơ bản
quá trình tái cơ cấu vào năm 2015, song thực tế, đến hết năm 2015 như đã phân
tích ở trên, việc tái cơ cấu mới chỉ dừng ở mức cơ học, chưa có nhiều cải thiện
về mặt tài chính và quản trị. Quá trình thay đổi về chất, tức là quá trình cải
tổ về mặt quản trị và tài chính sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ trong 5 năm tới, điều
này sẽ được NHNN và Chính phủ nỗ lực thực hiện bởi có như vậy thì cam kết của
NHNN và Chính phủ mới thực sự được hiện thực hóa. Theo đó, hệ thống ngân hàng
trở nên lành mạnh hơn, an toàn hơn trong vai trò dẫn vốn của mình.
- Điểm nghẽn nợ
xấu sẽ được xử lý, dòng tiền trong nền kinh tế được khơi thông. Với cam kết
cuối năm 2015 đưa nợ xấu về mức dưới 3%, xử lý nợ xấu đang được NHNN nỗ lực tìm
nhiều biện pháp thực hiện. Như vậy, giai đoạn 2016-2020 vấn đề nợ xấu sẽ không
còn là vật cản hay “điểm nghẽn” kinh tế nữa. Nợ xấu được kiểm soát, an toàn hệ
thống sẽ được đảm bảo, dòng vốn trong nền kinh tế sẽ được lưu thông, tạo thuận
lợi hơn cho quá trình tiếp cận vốn của khu vực doanh nghiệp khi mà hầu hết
doanh nghiệp Việt Nam vẫn hoạt động dựa nhiều vào vốn vay NH.
- Lãi suất sẽ
tiếp tục ổn định ở mức thấp, góp phần hỗ trợ mạnh mẽ cho khu vực doanh nghiệp.
Lãi suất hiện đang ở mức rất thấp, theo đó khó có thể giảm thêm, trong khi đó,
sự ổn định về lạm phát, nợ xấu được xử lý sẽ là nguyên khiến lãi suất không
tăng cao. Theo đó, lãi suất được dự báo là sẽ tiếp tục ổn định ở mức thấp như
hiện nay.
- Tăng trưởng
tín dụng và cung tiền M2 sẽ được kiểm soát theo hướng vừa hỗ trợ tăng trưởng
vừa đảm bảo ổn định dòng tiền và lạm phát. Định hướng điều hành chính sách tiền
tệ vừa được xem là kết quả của việc rút kinh nghiệm tăng tưởng tín dụng và cung
tiền cao trước đây, vừa là định hướng điều hành chính sách theo mục tiêu đã nêu
ở trên.
- Áp lực tăng
tỷ giá sẽ đậm hơn, gắn với gia tăng áp lực nợ công của Việt Nam, sự cải thiện
tích cực kinh tế Mỹ và tăng nhanh giá trị USD trên thế giới. Các doanh nghiệp
và người tiêu dùng trong nước sẽ được tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ tài
chính cạnh tranh và có chất lượng cao hơn từ nhà cung cấp nước ngoài. Tỷ giá
được điều chỉnh linh hoạt dần theo tín hiệu thị
trường, song vẫn đảm bảo tính ổn định, cũng như đảm bảo các mục tiêu vĩ mô dài
hạn khác.
Theo ncseif.gov.vn