* Thưa ông! Có thể nói là sau 3 năm ra nhập WTO chúng
ta thu được rất nhiều thành tựu có tác động lan tỏa tới nền kinh tế. Những đánh
giá, nhận xét của ông về hiệu ứng của WTO đối với sự phát triển của nền kinh tế
nước ta?
- Việc chúng ta tham gia WTO
chỉ là một trong những biện pháp để phát triển kinh tế, chứ nó không thể thay
thế hết tất cả các biện pháp khác. Do đó việc chúng ta nhìn lại mấy năm vừa qua
và bóc tách ra cái gì là do tác động của việc ra nhập tổ chức WTO, cái gì là do
những nhân tố khác là rất khó. Điểm khó nữa là chúng ta đã gặp điều không may.
Tức là gia nhập tổ chức WTO vào lúc tình hình kinh tế thế giới bị đảo lộn, trải
qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nặng nề, suy thoái kinh tế rất nghiêm
trọng. Do đó để đánh giá một cách chuẩn xác, cái gì là nhờ gia nhập tổ chức WTO,
cái gì là không quả là không đơn giản. Nhưng cũng có thể nhìn thấy tình hình
đất nước chúng ta sau khi Việt Nam ra nhập tổ chức WTO, coi như là từ đầu năm
2007 đi thì nó cũng có những biểu hiện tích cực. Biểu hiện thứ nhất là xuất
khẩu của chúng ta tiếp tục tăng và với tốc độ trên 20%/năm, với thị trường ngày
càng được mở rộng. Thứ 2 cũng có thể cảm nhận một cách đặc biệt rõ nét tức là
đầu tư nước ngoài đổ vào Việt Nam bùng nổ vào năm 2007 và nhất là năm 2008 với
tốc độ chúng tôi cũng không ngờ tới. Điều đó đã nói nên sức hấp dẫn của thị
trường Việt Nam càng mạnh hơn nữa sau khi Việt Nam đã hội nhập kinh tế thế
giới. Đấy là 2 thành tựu mà chúng ta có thể ghi nhận được. Từ đó, dòng tiền
ngoại hối đổ vào Việt Nam: kể cả qua đầu tư, rồi là xuất khẩu, rồi là kiều hối,
lao động tất cả những điều đó làm cho dự trữ ngoại tệ của chúng ta tăng lên
đáng kể. Cái thứ 3 tôi cho rằng nó vô hình thôi nhưng mà lại cực kỳ quan trọng
và có ý nghĩa rất là lớn: Tức là các doanh nghiệp của chúng ta đã bước đầu đã
học được cách hội nhập với thế giới và cũng đã phát huy được tác dụng của mình,
đồng thời cũng ứng phó được với những tác động không thuận của nền kinh tế thế
giới. Tất nhiên còn nhiều vấn đề, nhưng mà ra trận lần đầu như thế được thì rất
đáng ghi nhận. Cái thứ 4 đó là hệ thống pháp lý của chúng ta, khung khổ pháp lý
của chúng ta, cơ chế chính sách của ta về lĩnh vực kinh tế được cải thiện lên
rất nhiều so với trước khi chúng ta gia nhập tổ chức WTO. Trong quá trình ra
nhập tổ chức này, chúng ta cũng đã phải đổi mới, hoàn thiện, nâng cao hệ thống
pháp lý của chúng ta rồi. Thế thì chính điều đó đã cởi trói cho các doanh
nghiệp trong và ngoài nước. Nó làm cho cơ chế kinh tế của chúng ta thông
thoáng, minh bạch hơn rất nhiều. Đấy cũng là một kết quả mà chúng ta tuy không
cân đong, đếm được nhưng lại rất quan trọng. Kết quả thứ 5 nữa là, với việc gia
nhập tổ chức WTO thì vị thế quốc tế của chúng ta tăng hơn hẳn. Cũng cùng với
lúc đó thì chúng ta được bầu vào ủy viên không thường trực hội đồng bảo an liên
hợp quốc hai năm liền, rồi Việt Nam được tín nhiệm là nước Chủ tịch của Asean,
rồi chúng ta đại diện cho Asean dự diễn đàn rất lớn là G20… Những điều đó chúng
ta không thể tưởng tượng được nếu mà chúng ta không hội nhập với thế giới. Có
thể kể ra rất nhiều rất nhiều sự kiện nói nên vị thế quốc tế của Việt Nam. Nhìn
một cách tổng quát thì có thể ghi nhận việc chúng ta gia nhập tổ chức WTO là
một trong những biện pháp để phát triển kinh tế, một trong những biện pháp để
hội nhập với thế giới và nó mang ý nghĩa quan trọng và có những tác dụng rất là
cụ thể. Thế nhưng chỉ nói một chiều những thuận lợi đó thôi thì chưa đủ. Vẫn còn
có những khó khăn và nhiều thách thức.
* Trước khi chúng ta ra nhập WTO thì chúng ta đều biết
rằng là khi vào tổ chức này sẽ phải đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức.
Hiện nay, theo ông đánh giá: sau 3 năm như vậy thì những thách thức mà chúng ta
gặp phải mà chúng ta chưa vượt qua được là như thế nào?
- Phải nói thách thức mà
chúng ta đang gặp phải không chỉ phát sinh ở việc chúng ta gia nhập WTO mà nó
nằm trong nội tại nền kinh tế. Những thách thức đó càng bộc lộ rõ nét hơn khi
chúng ta hội nhập với thế giới, khi chúng ta gia nhập WTO. Tôi nói ví dụ như là
vấn đề kết cấu hạ tầng của chúng ta rất là yếu kém. Chúng ta biết rất rõ và cũng
có rất nhiều cố gắng nhưng tìm được lời giải thích đáng. Khi bùng nổ quan hệ
xuất nhập khẩu, bùng nổ quan hệ đầu tư thì cái yếu kém đó bộc lộ càng rõ. Hay
là việc chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng mà mọi người rất là lo lắng,
bức xúc là thiếu điện. Điều này có liên quan gì đến WTO đâu, thế nhưng, rõ ràng
nó bộc lộ sự yếu kém của nền kinh tế chúng ta chưa sẵn sàng ứng phó với sự
triển mạnh mẽ như vậy. Hoặc là vấn đề nhập siêu, năm vừa qua nhập siêu của
chúng ta rất là lớn, do chúng ta cũng đẩy mạnh xuất khẩu nhưng cơ hội phát
triển xuất khẩu, phát triển kinh tế tăng lên thì nhập siêu cũng tăng. Tức là
cái “bệnh cũ” của nền kinh tế nó bộc lộ ra một cách rất là rõ ràng. Cái thứ 2
nữa khả năng cạnh tranh của Việt Nam càng bộc lộ sự yếu kém. Tất cả những cái tôi kể trên cũng
là những cái yếu kém của khả năng cạnh tranh thế nhưng, ý tôi muốn nói ở đây là
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thì chúng ta cũng trụ vững được, cũng vẫn
là phát triển, không đến lỗi là thua trên sân nhà như nhiều người nói. Nhưng rõ
ràng là chúng ta có thể lợi dụng được nhiều cơ hội hơn nếu chúng ta có khả năng
cạnh tranh mạnh. Tức là về năng lực nắm bắt tình hình, dự báo tình hình, rồi
tiếp cận thị trường, xây dựng thương hiệu… Thì tất cả những điều đó nếu chúng
ta làm tốt hơn thì chắc chắn là cơ hội sẽ tốt hơn rất nhiều.
* Có thể nói động lực cho nước ta phát triển trong
những năm qua đó là xuất khẩu. Nhìn nhận lại những năm ra nhập WTO thì xuất
khẩu của chúng ta rất thuận lợi, mặc dù năm 2009, xuất khẩu có bị giảm đi do
khủng hoảng kinh tế thế giới nhưng so với nhiều quốc gia khác thì mức xuất khẩu
của chúng ta rất cao. Tuy nhiên, có thể nói là cơ cấu ngành hàng của chúng ta
còn hạn chế và trong những năm tới nếu chúng ta không có những thay đổi về
chiến lược xuất khẩu thì khó có thể nâng thêm được nữa tỷ trọng xuất khẩu lên.
Vậy thì ông đánh giá như nào về vấn đề này và cách thức chúng ta phải thay đổi
cách tiếp cận với chiến lược xuất khẩu, lấy xuất khẩu làm động lực phát triển
sẽ phải như thế nào?
- Sự yếu kém trong xuất khẩu
của chúng ta đã tồn tại từ lâu rồi và nó bộc lộ ra rõ hơn nữa trong những năm
chúng ta hội nhập với kinh tế thế giới nhưng nếu chỉ bó hẹp trong xuất khẩu thì
chưa đủ vì điều này liên quan đến toàn bộ cơ cấu nền kinh tế, mô hình phát
triển của chúng ta. Ở đây có mấy khía cạnh về mô hình là vấn đề rất lớn và bây
giờ người ta cũng nói rất nhiều về việc tái cấu trúc, chính là ý nói tái cấu
trúc mô hình phát triển. Thế thì ở đây những gì yếu kém liên quan đến xuất khẩu
thì một là chúng ta phát triển theo chiều rộng rất là nhiều, tập trung rất
nhiều đầu tư, rất là nhiều vốn, nhiều nhân công vào sự phát triển. Vốn chúng ta
đã huy động đến 42% GDP là mức cao nhất. Hiện nay trên thế giới, có lẽ không
thể huy động cao hơn được. Thế nhưng hiệu quả đem lại thì không nhiều. Vốn đầu
tư bây giờ thành cái mốt thời thượng, người ta hay nói đến ICOR thì tất nhiên
ICOR của chúng ta kém thì cũng có nhiều nhân tố chứ không thể đổ hết cho nền
kinh tế không hiệu quả. Cái thứ hai nữa là cơ cấu kinh tế. Trong từng lĩnh vực,
ví dụ như trong công nghiệp: công nghiệp chế biến chế tạo lại chiếm tỉ trọng
rất ít, công nghiệp khai thác chiếm tỉ trọng rất là cao. Hay là kể cả trong
nông nghiệp, chủ yếu đều là nguyên liệu thô. Vậy thì cái đó nó dội vào yếu tố
xuất khẩu thôi. Đấy là điều do bản thân cơ cấu kinh tế chưa hiện đại, chưa phù
hợp. Cái đầu là mô hình phát triển quá nặng về chiều rộng. Cái thứ hai là cơ
cấu chưa phù hợp. Cái thứ ba là mối quan hệ giữa phân bổ thị trường trong nước
và ngoài nước thế nào cho hợp lý. Chúng ta hướng mạnh đến xuất khẩu là đúng
rồi, vì thu nhập của dân ta còn hạn chế, thế nhưng tỷ lệ đó là bao nhiêu là phù
hợp thì cũng là một câu chuyện dài. Chúng ta càng xuất thì lại càng phải nhập
nhiều. Như hàng dệt may, bông, rồi vải cũng chẳng có thậm chí cái cúc cũng
không có, chỉ cũng không có, chỉ có một ít lao động thôi thì làm sao mà có giá
trị gia tăng cao được. Thành thử ra, cơ cấu về phân bổ thị trường cũng là câu
chuyện. Thế rồi cơ cấu giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà
nước. Hiện nay doanh nghiệp ngoài nhà nước phát triển rất cao. Doanh nghiệp của
nhà nước thì lớn, chiếm những lĩnh vực rất quan trọng nhưng sự đóng góp của mỗi
lĩnh vực đó nó như thế nào để cơ cấu kinh tế có lợi hơn… Tất cả đây không phải
là câu chuyện cơ cấu xuất nhập khẩu, mà nó là toàn bộ cơ cấu của nền kinh tế. Nếu
không có điều chỉnh lại, không có tái cấu trúc lại thì chúng ta sẽ “tắc tịt”,
tốc độ có thể vẫn tăng lên nhưng hiệu quả đem lại không tăng hoặc thậm chí thụt
đi. Đấy là câu chuyện lớn mà tôi nghĩ là sắp tới chúng ta đang hướng tới Đại
hội XI của Đảng, chắc chắn đây là đề tài sống còn vì chúng ta đang đứng ở
ngưỡng cửa từ nước thu nhập thấp sang thu nhập trung bình nên chúng ta không
chuyển đổi được mô hình phát triển mà vẫn như cũ thì chúng ta tiếng là có thể “nhúc
nhích” lên một ít đô la trên đầu người thế nhưng mà hiệu quả mang lại vẫn là
thấp.
* Một thành tựu lớn nữa mà chúng ta nhìn thấy ở đây là
việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI. Rõ ràng trong những năm gia
nhập WTO thì vốn thu hút của chúng ta rất nhiều, rất nhiều các dự án lớn được
chúng ta cấp phép. Nhưng mà ở đây có câu hỏi đặt ra là tính hiệu quả của những
dự án mà chúng ta cấp phép. Bởi vì có nhiều chuyên gia cho rằng nhiều dự án về
đất đai là chính và nó không mang lại sự lan tỏa trong nền kinh tế về những
công nghệ cao hay là những chất xám khoa học kĩ thuật, những dự án về khai thác
tài nguyên thiên nhiên. Vậy thì ý kiến của ông về vấn đề này là như nào?
- Trước tiên tôi phải nói là
chúng ta khẳng định việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mà chúng ta
gọi tắt là FDI có hiệu quả. Vì nếu nhìn lại sự phát triển kinh tế của chúng ta
trong những năm đổi mới từ năm 86 đến nay. Không có cái này thì chắc là chúng
ta không có những thành tựu như bây giờ. Tính đến ngày hôm nay thì FDI cũng
đóng góp hơn 30% công nghiệp của chúng ta, về thu ngân sách cũng chiếm tỉ trọng
trên dưới 10%, đóng góp cho GDP cũng 15-17%, đóng góp cho xuất khẩu hơn 50%...
Nếu không có cái này thì có những con số đó không? Chắc chắn là không có. Chúng
ta trước hết phải ghi nhận đây là nguồn lực chúng ta không thể bỏ qua, không
thể bỏ phí. Vấn đề là chúng ta sử dụng nguồn lực đó như nào thôi. Cũng không
thể trách ai được trong những năm tháng ban đầu, kinh nghiệm không có, thế hệ
chúng tôi là thế hệ được tiếp cận đổi mới ngay từ đầu. Có biết gì đâu, tôi cũng
làm kinh tế đối ngoại ở Bộ Ngoại giao rồi sau làm Bộ trưởng Bộ Thương mại rồi
làm ở Chính phủ nhưng mà hiểu biết về thế giới, hiểu biết về cơ chế trên thế
giới này: tài chính, tiền tệ, đầu tư…, thấy nó vô cùng phức tạp, mình thì đang
thiếu thốn đủ mọi bề. Mình mở ra được như thế thôi cũng hài lòng nhưng mà có
biết bao nhiêu điều sau này mới tỉnh ngộ ra. Thế nên là không nên đòi hỏi một
sớm, một chiều mọi thứ sẽ ổn thỏa được. Thế nhưng, bây giờ đã đến giai đoạn
phát triển mới rồi và mình đã có kinh nghiệm phát triển hơn 20 năm rồi thì đã
đến lúc phải chỉnh sửa lại ở cái cơ cấu. Tôi hoàn toàn đồng ý, vấn đề là cơ cấu
đầu tư và cơ cấu ấy cho công nghệ chế tạo, chế biến và đã thỏa đáng chưa hay là
phần khai thác còn nhiều. Ví dụ như trong lĩnh vực bất động sản, đó cũng là một
hình thức kinh doanh. Đừng có thành kiến gì với nó cả. Các nước và ta cũng vậy.
Kinh doanh bất động sản là một lĩnh vực bình thường. Vấn đề là cơ chế ở ta như
thế nào đó để việc kinh doanh bất động sản đó có lợi cho đất nước ta. Hỗ trợ
các doanh nghiệp của ta và chúng ta vẫn tuân thủ các điều luật quốc tế, đấy là
vấn đề cần thiết. Và rất đúng khi chúng ta nói việc đầu tư thời gian qua đã đem
lại công nghệ cao chưa, thì còn là hạn chế, chủ yếu mới là gia công, rất nhiều
doanh nghiệp của ta chủ yếu la gia công: đóng giầy, chế biến, lắp ráp… Chứ còn việc
chế tạo thực, kể cả công nghiệp phụ trợ cũng rất là ít. Thế thì ở giai đoạn mới
này chúng ta muốn thành nước công nghiệp, muốn thành nước hiện đại thì rõ ràng
là phải chỉnh sửa cơ cấu này đi bằng những cơ chế chính sách chứ không phải
bằng mệnh lệnh được. Những cơ chế chính sách về thuế, về lãi suất, rồi tất cả
những vấn đề kinh tế đó để lái cơ cấu đầu tư của nước ngoài đúng hướng là hỗ
trợ công nghiệp chế tạo, chế biến, rồi mang lại công nghệ cao cho đất nước,
mang lại giá trị gia tăng cao. Tôi muốn lại nhắc lại rằng, chúng ta phải bằng
các biện pháp kinh tế chứ không phải bằng các giải pháp hành chính.
* Khi mở cửa có một tác động mà nhiều quốc gia đang
gặp phải đó là chênh lệch giàu nghèo giữa các tần lớp trong xã hội. Đối với
nước ta ông có lo ngại về điều này hay không?
- Lo ngại quá đi chứ. Nếu mà
để cho phân hóa giàu nghèo mạnh quá thì sẽ gây ra bất ổn xã hội. Nếu thả lỏng
và mặc kệ sự phân hóa đó thì xã hội sẽ bất ổn. Vấn đề là phải tìm ra điểm cân
bằng giữa phát triển và công băng. Nghệ thuật của lãnh đạo là tìm được điểm cân
bằng ấy.
*Vâng xin cám ơn ông!
Đức Vân